NGUYÊN LÝ ĐIỂM HUYỆT

Chủ nhật - 28/04/2024 22:58
NHẬN ĐỊNH CỦA THẦY LÊ VĂN SỬU NĂM 1992 VỀ PHÉP ĐIỂM HUYỆT KHI DỊCH CUỐN “ĐIỂM HUYỆT LIỆU PHÁP” của Mã Tú Đường - Nhà xuất bản Thiểm Tây khoa học kỹ thuật xuất bản xã - Tháng 2/1981 (nhiều năm trước thời điểm xuất hiện cách kết hợp phương pháp Thập thủ đạo của lương y Huỳnh thị Lịch với y mao mạch và thải xỉ trong tĩnh mạch):
“Theo những tài liệu mà dịch giả hiện đã có trong tay thì phép điểm huyệt nói chung, tuy được gọi bằng những tên khác nhau như bấm huyệt, điểm huyệt, xoa bóp…, nhưng chúng có cùng một nguyên tắc là dùng áp lực của chi thể người thầy thuốc tác động lên cơ thể người bệnh, nhằm giúp cho cơ thể tự phòng bệnh, chống bệnh. Khi đi sâu thêm một bước, chúng ta sẽ thấy trong mỗi trường phái đều có phạm vi riêng và hiệu quả riêng. Có thể quy nạp các trường phái làm ba loại như sau: Phái bấm vuốt nhẹ, phái ấn day nặng và phái ấn day vừa phải.
1. Phái ấn day nhẹ, phép này dựa theo nguyên lý khai thông lạc mạch, lạc mạch ở nông (tĩnh mạch nổi, chữa những bệnh do tắc nghẹn tĩnh mạch mà gây ra đau đớn.
Muốn khai thông tắc nghẽn ở tĩnh mạch, trước hết phải chặn ở động mạch là nguồn ra của huyết dịch, làm giảm nhẹ áp lực chi tĩnh mạch, sau đó dùng cách vuốt xoa nhẹ ở những chỗ tĩnh mạch bị tắc nghẽn, khi chỗ tắc nghẽn được những rung động làm lỏng hoá ra, bấy giờ ta thả động mạch, lượng máu ra mạnh, lượng máu thu về tĩnh mạch sẽ nhiều lên đột ngột, có tác dụng như thêm nước để thông cống, những chỗ tắc nghẽn vừa được làn lỏng sẽ có cơ hội lưu thông nhanh, bế tắc được giải toả, bệnh biến lùi nhanh.
Có thể nói, phương pháp Thập thủ đạo của lương y Huỳnh thị Lịch tuy có những độc đáo về thủ pháp khác biệt về tên gọi huyệt vị, nhưng không ngoại nguyên tắc này. (Xem sách Bấm huyệt chữa bệnh của lương y Huỳnh thị Lịch do tỉnh Hội y học dân tộc tỉnh Tiền Giang và bệnh viện y học dân tộc tỉnh Tiền Giang phát hành 6 - 1983).
2. Phái ấn day day nặng, dựa trên nguyên lý chèn ép gây ra những phản ứng mới cho động mạch và thần kinh ở sâu, nhằm qua đó làm cải tiến tình trạng cơ thể.  Những động tác của phái này thường được theo hai hướng.
- Một là: khi bệnh thuộc hệ thống thần kinh, hoặc khi cần gây tê cục bộ để chuyển bị cho các động tác chỉnh sai khớp sương, nắn bó gẫy sương…, người ta thường ấn chẹn vào những chi thần kinh hữu quan theo những thủ pháp khác nhau do yêu câù chữa bệnh khác nhau.
- Hai là: chẹn vào động mạch ở đoạn dưới nơi có bệnh, nhằm cản trở lại một lượng lớn máu, số máu ở ứ lại này sẽ gây thành áp lực đột xuất mạnh trong các chi mạch nhỏ phía trên, có tác dụng làm giãn nở những nhánh động mạch nhỏ. Ấn vùng có bệnh, lượng máu cung cấp vào nơi này nhiều hơn sẽ tăng chất bổ và chất chống bệnh. Như vậy, phép này có tác dụng chữa những bệnh do động mạch nhỏ bị co hẹp làm cho lượng máu cung cấp ít, các tổ chức cục bộ do đó mà bị suy giảm công năng, nhất là chứng tê bại do suy dinh dưỡng cục bộ. (Xem sách án ma của Thiên Tân thị, Thiên Tân y viện, Thạch gia trang thịnh, giao thông vận luân cục y viện hợp tác biên soạn, Tân hoa thư điểm Bắc Kinh phát hành tháng 11 năm 1954 làm ví dụ).
3. Phái ấn day vừa , dựa trên nguyên lý điều hoà khí huyết, cân bằng âm dương, cho nên các thủ pháp của phái này thường ở độ sâu vừa phải, dùng sức mạnh vừa phải. Những thủ pháp của phái này luôn nhằm vào làm cho cục bộ có rung động theo nhịp khac nhau, chiều khác nhau. Khi có nhịp tác động của áp lực vào thân thể sẽ cùng một lúc có hai tác dụng:
- Một là làm giãn nở thành mạch, các thành phần chất lỏng trong và ngoài mạch trao đổi được dễ ràng, thì cũng là thành phần huyết và dịch được trao đổi chuyển hoá cho nhau, sự cung cấp dinh dưỡng cũng sẽ tốt đẹp hơn.
- Hai là: khi rung động khác nhau về nhịp, khác nhau về chiều hướng, sẽ làm cho việc vận chuyển máu trong mạch và chất lỏng ngoài mạch được tăng nhanh hay chậm lại, có tác dụng làm cải biến tình hình thực (nhiều, đầy) hay hư (thiếu, ít) của khí huyết tại chỗ và tạng phủ hữu quan (xem Bảo anh thần thuật trong sách Châm cứu đại thành làm ví dụ và sách Điểm huyệt liệu pháp này cũng cùng loại phải ấn day vừa). Khi phân tích ra như tôi vừa nêu, chúng ta sẽ tìm hiểu được những giá trị và những giới hạn của từng trường phái giúp cho việc học tập và vận dụng kinh nghiệm người xưa được hiệu quả vì đúng phạm vi và đúng mục đích.
Hà nội, xuân Nhâm thân 1992
Kính bút Lê Văn Sửu”

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây