16.PHONG PHỦ:風府(Nơi chứa gió; có tên là Thiệt bản)
- Vị trí: Ở giữa mép tóc sau gáy lên 1 thốn, chỗ lõm dưới ụ lồi xương chẩm. Túc Thái dương mạch, Đốc mạch, Dương duy mạch hội ở đó. CẤM CỨU, cứu ở đó làm người ta mất tiếng.( Tại đường giữa ngay dưới chẩm ngoài ở chỗ lõm giữa điểm gốc của cả hai cơthang.Cách xác định: Ụ chẩm ngoài có thể sờ thấy được như một hình lồi phẳng giống như vết sưng ở đường giữa của chẩm, ngay phía trên điểm nối sọ cổ. Sờ ngay bên dưới chỗ lõm huyệtPhong phủ (Du/GV 16) ở đường giữa, giữa điểm gốc của hai cơ thang. Nó thường cách chân tóc phía sau khoảng 1 thốn.Ở cùng mức bên dưới chẩm, huyệt Phong trì (Gb 20) nằm ở chỗ lõm giữa điểm bám của cơ thang và cơ ức đòn chũm). - Cách châm cứu: Châm đứng kim, sâu 5- 8 phân, ở trong vào sâu là tủy sống, không nên châm sâu. CẤM CỨU. - Chủ trị: Cổ đầu, gáy, cứng đau; đầu váng; điên nhàn; tứ chi tê dại; cảm mạo; trúng gió; bệnh tinh thần; lưỡi hoãn không nói được; rét run ra mồ hôi; mình nặng sợ gió; phong một bên người; bán thân bất toại; mũi chảy máu cam; hầu họng sưng đau; thương hàn chạy cuồng muốn tự sát; mắt nhìn mơ hồ; trong đầu trăm thứ bệnh; mã hoàng; hoàng đản; bổ tủy. Ngược luận nói rằng: « Tà khách ở Phong phủ theo xương sống mà xuống, về khí một ngày đem đại hội ở Phong phủ, các ngày sau xuống 1 khớp, như thế là làm yên ». Mỗi lần đến Phong phủ thì lỗ chân lông mở ra, lỗ chân lông mở ra thì tà khí vào, tà khí vào thì làm bệnh. Lấy ngày đó làm khéo thâm « yên ». Ra ở Phong phủ, ngày xuống thêm 1 khớp, 21 ngày thì xuống đến xương dưới gầm, 26 ngày thì vào ở trong cột sống cho nên ngày làm thêm « yên » là thế (là làm chết, là đêm) ». Ngày xưa Ngụy Vũ Đế nạn thương phong, gáy cấp Hoa Đà chữa ở đó được hiệu quả.