14. ĐIÊN CUỒNG (đi cuồng, nói cuồng)
Đào Xuân Vũ
2024-10-05T22:49:17-04:00
2024-10-05T22:49:17-04:00
http://dongyhc.vn/nukeviet/vi/dong-y-hc/tri-lieu-bang-dong-y/14-dien-cuong-di-cuong-noi-cuong-937.html
/nukeviet/themes/default/images/no_image.gif
Thuoc dong y
http://dongyhc.vn/nukeviet/uploads/logohc3-2.jpg
Thứ bảy - 05/10/2024 22:49
- Ôn lưu, Dịch môn, Kinh cốt: Chủ ngã cuồng (Thiên).
- Thần môn, Dương cốc: Chủ cười muốn cuồng.
- Đại lăng, Lao cung: Chủ phong nhiệt, hay cấu, trong lòng buồn vui lẫn lộn, nghĩ ham muốn, kêu bâng quơ, hay cười không dứt.
- Phi dương, Thái nhất, Hoạt nhục môn: Chủ điên cuồng lè lưỡi.
- Ôn lưu, Bộc tham: Chủ bệnh điên, lè lưỡi, hàm khua lập cập, nói nhảm, thấy quỉ.
- Trường cường: Chữa điên như phát cuồng, da mặt dày lên không chữa được (Minh Hạ nói: Chữa Điên cuồng).
- Lạc khước, Thính hội, Thân trụ: Chủ chạy lăng quăng, co giật, hoảng hốt, không vui.
- Tán trúc, Tiểu hải, Hậu đỉnh, Cường gian: Chủ điên phát co giật, chạy lăng quăng, không nằm được.
- Xung dương, Phong long: Chủ cuồng, mắt nhìn lung tung mà đi (vọng hành) trèo lên cao mà hát, cởi áo mà chạy.
- Thiên trụ, Lâm khấp: Chủ cuồng khác thường, nói nhiều không nghỉ, mắt ngược lên.
- Chi chính, Ngư tế, Hợp cốc, Thiếu hải, Khúc trì, Uyển cốt: Chủ nói cuồng.
- Hạ liêm, Khâu khư: Chủ nói cuồng khác thường.
- Cự khuyết, Trúc tân: Chủ cuồng lạ thường, nói lung tung, giận chửi.
- Dương khê, Dương cốc: Chủ lè lưỡi vênh cổ ( ) nói lung tung.
- Giản sử: Chữa sợ cuồng cuồng, hay buồn mặt đỏ, mắt vàng mất tiếng, không nói (xem thêm: Thiên).
- Cân súc: (Hạ giống), chữa kinh giản, chạy lung tung, điên, cột sống co cứng, mặt chuyển thẳng lên (Minh).
- Dương cốc, Thân trụ (xem: Điên, Động kinh), Não không, Kinh cốt (xem: Đầu gối co): Chữa bệnh điên chạy rất nhanh.
- Phong phủ: Chữa chạy cuống cuồng, muốn tự sát, mắt trợn ngược nhìn lung tung (Hạ, giống thế).
- Thúc cốt: Chữa bệnh điên cuồng (xem: Kinh giản).
- Tán trúc: Bất kể là thi quyết, điên tà, thần cuồng, mê, quỉ, đều: Chữa ở đấy, Tần Thừa Tổ dùng để chữa cứu thần tà điên cuồng (xem: Quỉ tà).
- Xung dương: Chữa cuồng lâu dài, trèo cao mà hát, cởi áo mà chạy.
- Quang Minh: Chữa đột nhiên cuồng (xem: Bệnh nhiệt không có mồ hôi).
- Giản sử: Chữa tự nhiên cuồng, trong ngực bâng khuâng, sợ gió lạnh, nôn mửa, sợ sệt, ở trong lạnh, ít hơi, lòng bàn tay nóng, nách sưng, khuỷu tay co (Minh Hạ nói: Tự nhiên cuồng, hồi hộp sợ).
- Nhật nguyệt: Trị bụng dưới nóng, muốn chạy (xem: Tim lo buồn).
- Ty trúc không: Trị phát cuồng, nôn ra bọt dãi (xem: Hoa mắt).
- Thái nhất: Trị bệnh điên, chạy cuồng, cuồng tim buồn bằn, lưỡi thè lè ra (Đồng).
- Dương cốc: Chữa bệnh điên, chạy cuồng.
- Tâm du: Chữa tâm trúng phong, chạy cuồng, phát giản, nói năng buồn bã, khóc lóc, tim ngực nhộn nhạo, đầy tức, mồ hôi không ra, kết tích, nóng rét, nôn mửa, ăn không xuống, ho nhổ ra máu (Minh giống thế).
- Uyển cốt: Chữa chứng cuồng sợ sệt.
- Cự khuyết: Trị phát cuồng, không nhận ra người, sợ hồi hộp, ít hơi.
- Khúc tuyền, Cao hoang du: Trị phát cuồng (xem: Lao khái).
- Thần môn: Chữa mình nóng, cuồng, buồn khóc.
- Dương giao: Chữa hàn quyết, sợ cuồng.
- Thiếu hải: Chữa mắt hoa, phát cuồng, nôn mửa ra bọt dãi, cổ không quay được.
- Chi chính: Chữa phong hư cuồng, sợ sệt (xem: Kinh hãi).
- Đại lăng: Trị nói cuồng, không vui (xem: Thương hàn không có mồ hôi).
- Dương cốc: Trị nói lung tung, quay trái, quay phải điên cuồng, co giật, mắt hoa.
- Dương khê: Trị cuồng, thấy quỉ (Đồng).
- Bộc tham: Trị điên giản, nói cuồng thấy quỉ.
- Thiên lịch: Trị tật điên, nói nhiều (Hạ giống thế).
- Ôn lưu: Trị điên tật, nôn ra dãi, nói cuồng, thấy quỉ (Minh Hạ nói: Điên giản, thè lè lưỡi, hàm răng lập cập, nói cuồng).
- Hạ liêm: Trị nói cuồng (xem: Kinh).
- Trúc tân: Trị điên tật, nói cuồng. Minh Hạ nói: Trẻ em điên tật thè lè lưỡi.
- Công tôn: Trị tự nhiên mặt sưng, bứt rứt trong lòng, nói cuồng.
- Thái uyên: Chủ nói cuồng (Minh Hạ giống thế), mồm phồng ra (xem: Đau tim).
- Dịch môn: Trị hồi hộp, sợ, nói lung tung.
- Dương cốc: Chữa lưỡi thè lè, cổ vênh, nói lung tung, không thể quay trái phải, co giật váng đầu, đau mắt (Minh).
- Cân súc: Chữa bệnh giản mà nói nhiều.
- Cưu vĩ: Chữa điên giản, hát lung tung, lời nói không có lựa chọn.
- Hoàng Đế chữa quỉ tà mị và điên cuồng, lời nói không có lựa chọn, hàn cứu ở giữa mặt trong môi trên, trên sợi thịt như dây đàn 1 mồi, mồi như hạt lúa mạch nhỏ, lại dùng dao thép cắt đứt càng nhanh càng tốt.
- Đồng nói: Thủy câu trị lời nói không biết phân sang, hèn (xem: Điên giản).
- Dạ môn: Chủ nói lung tung (Thiên, xem: Kinh giản).
- Nói cuồng hoảng hốt, cứu Thiên khu 100 mồi.
- Cuồng tà phát không thường, đầu tóc bỏ xõa xuống, kêu gọi rất to, muốn giết người, không tránh lửa, nước và nói cuồng những lời lung tung, cứu Giản sử 30 mồi, cũng cứu kinh, hãi, ca, khóc.
- Cuồng điên như quỉ nói, cứu Túc thái dương 40 mồi.
- Cuồng điên, sợ hãi, chạy như gió, hoảng hốt, giận mừng chửi mắng, cười cợt, hát khóc lời của quỉ, tất cứu Não hộ, Phong trì, Thủ dương minh, Thái dương, Thái âm, Túc dương minh, Dương kiều, Thiếu dương, Âm kiều, gót chân, đều số mồi theo tuổi.
- Chạy cuồng, đâm người, hoặc muốn tự sát chửi rủa không thôi, xung thần, nói lời của quỉ, cứu khóe mép chỗ trắng đỏ phân ra một mồi, lại ở nếp gấp trong khuỷu tay là 5 mồi, lại ở giữa xương bả vai là 3 mồi, báo cứu ở đó.
- Thương Công Pháp thần hiệu, tự nhiên nói lời quỉ, lấy cái đai chõ, buộc kẹp hai ngón tay cái lại, cứu chỗ mảng sườn bên trái, bên phải, đúng chỗ đầu sườn sụp xuống, ở 2 chỗ đều cùng đốt lửa, đều 7 mồi, theo đó quỉ tự nói họ tên rồi xin đi, từ từ hỏi han và cởi tay ra.
- Tự nhiên cuồng, nói lời của quỉ, châm ở ngón chân cái, chỗ dưới móng vào một ít là dứt ngay.
- Nhân trung: Chủ tà bệnh không dứt lời và các tạp chứng, phàm người trúng ác, trước hết bấm dưới mũi là vì thế.
- Tà quỉ nói lung tung, cứu Huyền mệnh 14 mồi, huyệt ở bên trong môi miệng, giữa dây đàn, dùng dao thép cắt đứt rất tốt.
- Trị Phế trúng phong, nói cuồng (xem: Trúng gió), cuồng tà nói như quỉ, cứu Thiên song, Phục thỏ.
- Buồn khóc, nói như quỉ, cứu Thiên phủ, Từ môn (xem: Điên tà).
Có một người học trò nói lung tung lạ thường, vừa muốn đánh người, bệnh đã mấy tháng rồi. Ý tôi cho đó là bệnh tâm, là cứu Bách hội vì Bách hội vốn là chữa tâm. Lại nghi ngờ là quỉ tà, dùng phép cứu quỉ tà của Tần Thừa Tổ, gộp hai ngón tay cái lại, dùng dây vải mềm buộc nhanh, chắc để mồi ngay chỗ thịt và móng tiếp nhau, cứu 7 mồi, cả 4 nơi đều đốt lửa, mà sau đó khỏi (Cách cứu xem: Điên tà).
Lại có 2 nhà giầu cũng có con bị bệnh đó, cũng có nhà sư thầy thuốc cứu huyệt đó mà khỏi.
- Chạy cuồng, co giật, cứu Ngọc chẩm lên 3 thốn là 20 mồi.
- Chạy cuồng, kinh giản, cứu Hà khẩu 50 mồi, tại giữa chỗ lõm sau cổ tay có động mạch là huyệt, chỗ đó cũng là Dương minh.
- Cuồng chạy, điên giản, cứu Đại du 100 mồi.
- Cuồng chạy, điên giản, cứu đầu chót sườn 11 (Lý lặc) 30 mồi.
- Cuồng chạy hay giận, buồn khóc cứu Cự giác (Còn viết là Cảo giác) số mồi bằng số tuổi, huyệt ở trên xương bả vai, sau lưng, tay quặt lại sau, không tới, ở trên huyệt cốt mang, vê, xoay thấy đau là đúng.
- Cuồng chạy, sợ hoảng hốt, cứu Túc dương minh 30 mồi.
- Cuồng chạy mắng chửi, lạ thường, cứu Bách hội, số mồi theo tuổi, tại dưới Dương minh 5 phân.
- Cân súc (Đồng, giống thế): Chữa chạy cuồng.
- Tam lý: Chủ bệnh tà kêu to, chửi mắng, chạy xa.
- Cuồng chạy, điên quyết như người chết, cứu chòm lông ở ngón chân cái 9 mồi (Dực nói: Cứu Đại đôn).
- Cuồng chạy có khí lạ, cứu Tuyệt cốt (xem: Thượng khí).
- Nói như quỉ, chạy cuồng, theo đúng phép trên mà cứu. Nếu thương hàn mà nói như quỉ, chạy cuồng, chỉ nên dùng Tứ vật thang gia Hoàng kỳ mấy phân. Khoảng chừng từ 7 đến 8 đồng cân nặng làm một lần uống. Một bát nước sắc còn bảy phần thì uống, cái bã ấy thì dùng nước một bát sắc còn nửa bát uống ngay theo. Tôi thường dùng là thần hiệu, cho nên phụ vào đây.
Nguồn tin: TƯ SINH KINH - Q4 - LÊ VĂN SỬU dịch.