24. TRÚNG GIÓ (Trúng phong) trúng gió nóng, rét, xem bàn thêm về phong nửa người
Đào Xuân Vũ
2024-10-15T03:12:59-04:00
2024-10-15T03:12:59-04:00
http://dongyhc.vn/nukeviet/vi/dong-y-hc/tri-lieu-bang-dong-y/24-trung-gio-trung-phong-trung-gio-nong-ret-xem-ban-them-ve-phong-nua-nguoi-948.html
/nukeviet/themes/default/images/no_image.gif
Thuoc dong y
http://dongyhc.vn/nukeviet/uploads/logohc3-2.jpg
Thứ ba - 15/10/2024 03:12
- Trẻ em nếu như là bệnh phong, mọi loại Thuốc chữa đều không khỏi, cứu Suất cốc (Minh Hạ).
- Hoàng Đế chữa trúng gió, mắt ngược lên trên và không nói được, cứu trên mỏm gai đốt sống 2 và 5, mỗi chỗ đều 10 mồi cùng châm lửa một lúc, mồi to như nửa hạt táo, khỏi ngay.
Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá rằng: Trúng gió, liệt nửa người cứu như thế nào? Đáp rằng: Phàm người ta trước khi chưa trúng gió khoảng 1, 2 tháng hoặc trước dăm ba tháng, không kể là lúc nào, tự nhiên trên ống chân, tê nặng, buốt dại rất lâu mới hết, đó nên hiểu là chứng trúng gió, phải cứu ngay Túc tam lý, Tuyệt cốt 4 chỗ đều 3 mồi. Sau cùng Hành, Bạc hà lá Đào, liễu đun nước ngâm rửa đuổi hết phong khí theo vết bỏng cứu mà ra ngoài. Vết bỏng cứu mùa xuân để mùa thu cứu, vết bỏng cứu mùa thu để mùa xuân cứu. Thường làm cho 2 chân có vết bỏng cứu là hay.
Phàm những người không tin phép này, ăn uống không giữ gìn, rượu gái qua mức, đột nhiên trúng gió đó. Tiếng nói thẳng rít (kiển, sáp) bán thân bất toại, nên 7 chỗ cùng đốt lửa đều 3 mồi, phong bên phải cứu bên trái, trái cứu phải, Bách hội, chân tóc mai trước tai, Kiên tỉnh, Phong thị, Tam lý, Tuyệt cốt, Khúc trì là 7 huyệt thần hiệu. Không nên tìm chích cụ thể, theo đùng phép cứu, không thể không khỏi.
Cứu phong trúng vào phủ, tay chân không theo ý là như thấy tay chân hoặc tê, hoặc đau, rất lâu mới khỏi. Nờn nghĩ đó là chứng trúng, bệnh bên trái cứu bên phải, bệnh phải cứu trái. Do không theo cứu mà hỏng, vết bỏng cứu mùa xuân thì để đến mùa thu cứu, vết bỏng cứu mùa thu thì để đến mùa xuân cứu, làm cho hết phong khí (Tập Hiệu).
- Bách hội, Khúc tân, Kiên ngung, Khúc trì, Phong thị, Túc tam lý, Tuyệt cốt: Cộng cả là 13 huyệt.
Cứu phong trúng tạng, khí tấn, dãi lên, không nói được cựu kỳ nguy. Đặt lựa xuống là khỏi ngay. Nếu như thấy chứng trong tim sợ sệt loạn bậy, cái thần suy nghĩ không êm ái, hoặc chân tê, đó nên nghĩ là chứng trúng tạng, không cần hỏi phong hay khí, nhưng mà đúng thứ tự trên và dưới, tất cả đều cứu 5 mồi. Riêng có ngày cứu số mồi theo tuổi. Phàm qua xuân, qua thu, thường cứu để tiết phong khí, người có phong nên giữ gìn, không lo ngại. Cái đó có thể cứu rất tốt Bách hội, Phong trì, Đại chùy, Kiên tỉnh, Khúc trì, Giản sử, Túc tam lý, cộng là 12 huyệt.
Tập Hiệu phương nói: Chữa phong không phải như Tục mệnh, phòng phong, bài phong cùng loại, những thứ đó có thể phù trợ khi có bệnh tật. Nếu như cứu nguy gấp, đốt ngải là tốt, lời bàn đó cũng đúng.
Phạm tử Mặc: Từ khoảng tháng 5 Nhâm ngọ bị miệng mắt méo lệch, cứu Thính hội v.v.. 3 huyệt thì khỏi. Tay chân, phải tê, yếu cứu Bách hội phát tế … 7 huyệt thì khỏi, khoảng tháng 8 năm mùi, khí tắc, dãi lên, không nói được, dùng Kim hổ đơn gia Nhị phấn (phấn trơn) uống đến 4 viên rưỡi mà khí không thông, dãi không xuống, thuốc từ trong lỗ mũi chạy ra hồn vía hay lên mây, như rơi vào sông nước, trong phát chốc muốn chết, cứu Bách hội, Phong trì… cả hai bên cộng là 12 huyệt. Khí không đủ, mửa ra hơn một bát, xong rồi lại đi ỉa hơn chục lần, nằm ôm gối hơn nửa tháng (phục chấm bắn nguyệt dư), thì yên hết, sau này ông ta mới biết ý tứ có khác chút ít so với bình thường, trong tim sợ sệt lộn xộn, tức thì lại cứu Bách hội, Phong trì thì khỏi ngay.
Bản Sự Phương nói: 12 huyệt là Thính hội, Giáp xa, Địa thương, Bách hội, Kiên ngung, Khúc trì, Phong thi, Túc tam lý, Tuyệt cốt, Phát tế, Đại chùy, Phong trì, đúng thế mà dừng khỏi ngay!
Khí tắc, dãi lên, không nói được là chứng trúng vào tâm, Sào Thị bệnh nguyên thường bàn đến” Cố phương tuy nói chẳng những bị ngã ngửa, hết bứt rứt, ra mồ hôi … là chứng của trúng gió, sợ nói chưa hết. Phạm Công cứu làm cho khí thông được, đúng là sức cứu của Bách hội, còn như nôn ra hơn một bát, đi ỉa hơn chục lần, làm sao uống được Kim hổ đơn gia Nhị phấn có thể gây ra được? (Tốt dụng phương: Cấm người ta uống Kim hổ đan).
- Phong trì: Chữa đại nạn phong, trước bổ, sau tả. Nạn còn ít châm nhẹ hơn (Minh).
- Can du: Chữa trúng gió, đầy tức, ngắn hơi, ăn không được, ăn không tiêu, mửa ra máu, mắt mờ, bế tắc.
- Âm kiều ( Chiếu hải): Chữa thiên khô (khô quắt một bên), không đi được, phong to, mạnh, nhanh không nhận biết người, nằm sợ nhìn như thấy sao (sao trên trời).
- Lâm khấp: Chữa tự nhiên trúng gió không nhận biết người (Đồng).
- Giải khê: Chữa phong, mặt phù thũng, màu đen, quyết, khí xông lên, bụng chướng, đi ỉa rặn mót, co giật, sợ hãi, đầu gối, đùi, ống chân sưng đau, chuột rút, mắt hoa, đầu đau.
- Lao cung: Chữa trúng phong hay cáu, buồn, cười, không nghỉ tay bại.
- Nội quan: Chữa trúng phong, khuỷu tay co, thực thì tim đau nhanh mạnh (bạo), hư thì tim bứt rứt sợ sệt.
- Phong đầu và sau tai đau, tim bứt rứt, chân không khép lại được, không đặt xuống đất được, miệng lệch, giãn ra, đầu gáy co giật đau, hàm răng cấp, co kéo, lấy Hoàn cốt chủ chứng đó.
- Tâm du: Chủ tâm trúng phong, nói năng buồn khóc (Đồng, xem: Chạy cuồng).
- Bách hội: Trị phong giản, trúng phong uốn ván, hoặc hay khóc, nói năng lộn xộn, phát không có giờ giấc, thịnh thì mửa ra nước bọt, tim sợ, bứt rứt, hay quên (Đồng).
- Côn lôn: Chủ cuồng, dễ thành phong to (Thiên).
- Âm kiều ( Chiếu hải): Chủ phong nhanh, mạnh (bạo) không nhận biết người, tạo một bên (Thiên khô) không đi được.
- Chiếu hải: Chủ phong to, im lặng (mặc mặc) không biết chỗ đau, như nhìn thấy sao trong mắt.
- Thiên tỉnh: Chủ phong to im lặng, không biết chỗ đau, buồn thương, không vui.
- Bách hội: Chữa phong xanh, phong tâm (xem: Phong giản).
- Kiên ngung: Trị phong lệch nửa người, phong nhiệt (xem: Trúng gió, không nói).
- Kỳ Bá nói rằng: Trúng phong đại pháp có 4: Một là thiên khô (Lệch khô một bên), Hai là phong phi (da bị nắng, nóng nổi nhiều hạn rất ngứa), Ba là phong ý ( ) ôn hòa từ thiện, Bốn là phong bại. Tất cả các bệnh nhanh chóng tự nhiên thường thường là phong. Mới bị thì nhỏ bé, người ta không nhận ra (ngộ), nên dùng ngay Lục mệnh thang, theo đúng Du huyệt mà cứu, Phong là lớn nhất của bách bệnh, Kỳ Bá nói có 4, nói vậy là rất nặng vậy.
Phong nói chung thường từ bối du của ngũ tạng mà vào, các tạng bị bệnh thì phế tạng là nhanh nhất, Phế chủ hơi thở, lại xông thẳng (mạo) đến các tạng theo đó.
- Phế trúng phong là người nằm ngửa mà ngực đầy tức, ngắn hơi, khí dâng lên (mạo), bứt rứt (muộn) ra mồ hôi, chứng của phế phong, xem: Từ hai bên dưới mắt, trên mũi đi xuống đến miệng mà màu trắng là còn có thể chữa được, cứu nhanh ngay Phế du 100 mồi, cho uống Tục mệnh thang, trẻ em khí giảm đi, nếu như cấp mà màu vàng, đó là phế đã tổn thương (Thương), hóa làm huyết, không thể: Chữa trở lại được. Nếu là cấp phong tà ở trong, làm mờ mặc hoảng hốt, nói nhảm nói cuồng, hoặc ít hơi, buồn buồn không thể nói trở lại, nếu không tìm thấy, trị ngay, túc tích mà chết. Thấy ngay thì cứu Phế du, Cách du, và Can du mấy chục mồi, uống ngay Tục mệnh thang có thể cứu được. Nếu bọt dãi ra mà không thu lại, đánh dấu cứu là đúng chỗ và uống thuốc.
Chư Dương bị phong, cũng hoảng hốt, nói nhảm, tự tương tự như bệnh phế, nhưng chậm, có thể qua thời gian dài mới chết.
- Can trúng phong là người chỉ có ngồi xổm ( ), không thể để đầu thấp xuống được. Vùng quanh mắt liền lên đến trán màu hơi có xanh là chứng của can phong. Nếu như môi xanh mà mặt vàng, còn có thể chữa được, cấp cứu ở Can du 100 mồi uống Tục mệnh thang.
- Tâm trúng phong là người chỉ có thể nằm ngửa, không thể vặn nghiêng, bứt rứt, loạn lên, dứt hẳn thì sự xông lên (mạo tuyệt), ra mồ hôi. Đó là chứng của tâm phong. Nếu mồi đúng chỗ như trước, màu đỏ còn có thể chữa được. Cấp cứu ngay ở Tâm du 100 mồi uống Tục mệnh thang.
- Tỳ trúng phong là người chỉ có ngồi xổm mà bụng đầy, khắp người vàng mà mửa ra vị mặn. Mồ hôi ra còn có thể chữa cấp cứu ngay Tỳ du 100 mồi, uống Tục mệnh thang.
- Thận trúng phong là người chỉ ngồi xổm mà đau lưng. Xem: Hai bên phải trái sườn, chưa có màu vàng như bánh bằng bột thóc gạo to, còn có thể chứa được, cấp cứu ngay Thận du 100 mồi, uống Tục mệnh thang.
- Đại trường trúng phong, nằm mà ruột sôi không rứt, cứu Đại trường du 100 mồi, uống Tục mệnh thang.
- Trong làng có người tự nhiên thấy bụng trên nóng rất dữ dội, kịp đến hiệu thuốc nói chứng trạng như thế, nhà hàng thuốc cho rằng đó là chứng trạng của trúng phong, đã chữa bằng thuốc phong mà phong không làm bệnh.
Trong tâm của tôi còn ghi chép đến Di lăng, thấy một Thái thú trong bụng đột nhiên bị nạn nóng rất dữ, chẳng tránh né gì chỗ đất có nước hay rượu, cứ trải chiếu mà nằm lên trên, rồi bảo người ta quạt, ngày hôm sau trúng gió, mấy ngày sau thì chết.
Người ta đều có tội lỗi là nằm trên chiếu chỗ có nước mà quạt, và đến Phong dương (Tại tỉnh Hồ nam), thấy có một bà già trong bụng cũng có nạn nóng, ban đêm ra nằm ở hè (sảnh), ngày hôm sau trúng gió, bất ngờ lại hợp với tôi có mang theo Tiểu Tục mệnh thang, đem cho uống, lại mời thầy thuốc đến: Chữa, mấy ngày thì khỏi.
- Đầu tiên biết người ta trúng gió, trong bụng thường nóng mà sau đó mới làm bệnh, mà Tiểu Tục mệnh thang không thể không uống.
- Lệnh rằng: Vương bị nạn phong, thầy thuốc là Thanh châu Bạch viện tử, lấy bài Phong thang, Tục mệnh thang, Tứ vật thang, Hoàng kỳ kiện trung thang, Truật phụ thang gia lúa tán ( ) tất cả bỏ vào một chỗ hòa đều rồi chia làm nhiều uống, mỗi lần uống một bát nước, ba quả táo, 5 lát gừng, sắc còn 7 phần, bỏ bã uống âm ấm. Từ đó về sau người ta uống đều khỏi cả.
- Truyện Chu Hộ Tam thang tứ tán tử: Dùng Tứ quân tử, Bài phong, Tục mệnh thang thêm lúa ( ) gọi là cấp phong chính khí quân khí tán, tất cả mọi bệnh phong không chứng nào không khỏi.
- Can phong xem: Chứng hậu, là miệng không nói được, thường cứu ở Nhân trung, dưới mũi, thứ nữa cứu Đại chùy, thứ nữa cứu Can du 50 mồi, các chỗ còn lại cứu mồi theo tuổi. Người mờ mắt cứu thì được sáng. Cứu 200- 300 mồi thì tốt.
- Phàm tâm phong hàn, cứu Tâm du mỗi chỗ đều 50 mồi.
Biển thước nói rằng: Phàm người tâm phong, cứu hai bên Tâm du, mỗi bên 1 thốn 2 phân, mỗi chỗ đều dăm bảy mồi.
Đối với chỗ Tâm là Can du có hai huyệt chủ tâm phong bụng chướng đầy, ăn không tiêu hóa, mửa ra máu, đau buốt, tứ chi gầy guộc không muốn ăn, mũi có máu ra, mắt cứ mờ, không rõ dấu vai, dưới sườn đau, dái cấp, cứu 200-300 mồi thì khỏi dứt.
Biển thước nói: Tự nhiên trúng ác phong, tâm buồn bằn bứt rứt, độc muốn chết, cấp cứu nếp ngang dưới ngón chân cái, số mồi theo tuổi, khỏi ngay.
- Nếu co gân không đi được, gân mắt cá trong co, cứu trên mắt cá trong 40 mồi. Gân mắt cá ngoài co, cứu trên mắt cá ngoài 30 mồi, mới khỏi ngay.
- Nếu mắt đội con ngươi ngập vào phía trên, cứu phía sau 20 khóe mắt, 14 mồi.
- Nếu không nói được cứu trên mỏm gai đốt sống thứ 3, 100 mồi.
- Nếu không nhận ra người cứu ở đầu sườn cụt 7 mồi (Lý lặc ở sườn 11).
- Nếu mắt trợn miệng mím bụng đau như cắt, cứu ở nếp ngang thứ nhất dưới bìu dái 14 mồi. Cứu tự nhiên chết cũng khỏi.
- Chữa phong lớn, tự nhiên bị phong, các loại phong hoãn cấp tự nhiên phát động, không tự giác biết, hoặc bụng trên (Tâm phúc) trước đầy, hoặc nửa người không điều khiển được (bán thân bất toại), hoặc miệng mím không nói, bọt dãi tự ra, mắt nhắm, tai ù, hoặc thân người thẳng ruỗi mà lạnh, hoặc bứt rứt, hoảng hốt, hay cáu, không hạn chế được, hoặc môi xanh miệng trắng, mắt đội lên uốn ván. Ngay lúc mời đều thấy phát động thì cứu ngay Thần đình 7 mồi thứ cứu Khúc sai, thứ nữa cứu Thượng quan, thứ nữa Hạ quan, Thứ nữa Giáp xa, thứ nữa Liêm tuyền, thứ nữa Tín hội, thứ nữa Bách hội, thứ nữa bản thần, thứ nữa Thiên trụ, thứ nữa Đào đạo, thứ nữa Phong môn, thứ nữa Tâm du, thứ nữa Can du, thứ nữa Thận du, thứ nữa Bàng quang du, thứ nữa Khúc trì, thứ nữa Kiên ngung, thứ nữa Chi câu, thứ nữa Hợp cốc, thứ nữa Giản sử, thứ nữa Dương lăng tuyền, thứ nữa Dương phù, thứ nữa Côn lôn, các huyệt kể trên đều cứu 7 mồi.
- Trị phong, cứu Thượng tinh 200 mồi, Tiền đình 240 mồi, Bách hội 200 mồi, Não hộ, Phong phủ 200 mồi.
- Trị đại phong, cứu Bách hội 700 mồi.
- Trị trăm loại phong ở sau não, gáy, chỗ ngang Đại chùy, 2 cái lõm, ( ), do là 2, 3 thốn, lấy theo thốn ngón tay của người bệnh mà do 2 cái lõm, mỗi chỗ đều cứu 100 mồi. Khỏi được.
- Trị phong ù tai, từ sau tai do ở phân rưỡi, hơi vào trong có cái lễ, cứu tất cả mọi thứ phong đều được, cuồng cũng khỏi, hai bên trước sau Nhĩ môn đều 100 mồi.
- Chữa tự nhiên ác phong, muốn chết, không nói được và thịt bại, không nhận biết ngươì, cứu mỏm gai đốt sống thứ 5, tên là Tạng du là 150 mồi, nếu 300 mồi càng tốt.
- Đại trường du: Trị phong, trong bụng kêu như sấm, ruột dãn ra, dễ ỉa, ăn không tiêu hóa, bụng dưới cắn đau đốt sống thắt lưng đau cứng, hoặc khó ỉa đai, không ăn uống được cứu 100 mồi, 3 ngày một lần báo.
- Dịch môn: Cứu 50 mồi, phong chủ.
- Tuyệt cốt: Cứu 100 mồi, tri phong mình nặng, tim bứt rứt, ống chân đau.
- Bách hội, Thiên phủ, Khúc trì, Liệt khuyết: Chủ ác phong tà khí, nước mắt chảy ra hay quên.
- Dũng tuyền: Chủ phong nhập vào trong bụng.
- Thương dương: Trong tai phong sinh.
- Lâm khấp: Chủ đại phong, đau mắt (Giáp nói, khóe mắt ngoài đau).
- Quan xung: Che mặt đen, Phong thấp.
- Giải khê: Chủ phong từ đầu đến chân, mắt, mặt đỏ.
Giải thêm tên Thuốc chữa phong, thì: Tiến trần hương bán hạ thang phương nói: Người trúng gió tâm, thận đều hư trăm mạch đều loạn, khí tán mà huyết trệ. Nếu tiện bảo uống Kim ngân, Châu sa, Não sa là thuốc mát, thì chân tay không giơ lên được, kinh lạc sẽ chết, tiện uống Phụ tử sống thì thêm phát hư nhiệt, chuyển thành không nói được, hoặc ỉa ra máu tươi, theo đó làm thành phế tật.
Muốn trị phong, đúng là trước hết chủ tâm, ích khí khử đàm, tỉnh tỳ rồi sau mới: Chữa phong, thì 10 ca khỏi 8, 9. Dùng phụ tử bào chế là một cái, trầm hương mấy phân, Nhân sâm nửa lạng, Bán hạ 2 đồng cân, Nam tinh 1 lạng, các thứ dùng nước nóng rửa 7 lần, tán nhỏ, mỗi lần uống xúc 2 đồng tiền to, nước 2 chén, gừng 10 lát sắc đến còn 1 chén uống lúc bụng đói, nước bớt nóng thì uống, thần hiệu.
Đó là bàn về: Chữa phong có lý nên chép vào đây.
- Dịch môn: Chủ phong, hàn nhiệt, nót rét (Thiên).
- Nội quan: Chủ trong bàn tay phong nhiệt.
- Giản sử: Chủ đầu mình phong nhiệt.
- Hậu khê: Chủ phong mình nhiệt.
- Hiệp khê: Chủ trong lồng ngực lạnh như chứng tạng của phong.
- Phế hàn, cứu Phế du 100 mồi.
- Thận hàn, cứu Thận du 100 mồi.
- Đại hoành: Trị đại phong nghịch khí hàn nhiều (Đồng).
- Phàm trúng gió, dùng Tục mệnh thang, Bài phong thang, Thần tinh đan, Nhân vu tửu, lại gia cứu tất khỏi.
Nguồn tin: TƯ SINH KINH - Q4 - LÊ VĂN SỬU dịch.