30. TRĨ (dò, nhỏ giọt, Xem thêm: Vụn dò)
Đào Xuân Vũ
2024-09-15T21:01:24-04:00
2024-09-15T21:01:24-04:00
http://dongyhc.vn/nukeviet/vi/dong-y-hc/tri-lieu-bang-dong-y/30-tri-do-nho-giot-xem-them-vun-do-894.html
/nukeviet/themes/default/images/no_image.gif
Thuoc dong y
http://dongyhc.vn/nukeviet/uploads/logohc3-2.jpg
Chủ nhật - 15/09/2024 21:01
- Trường cường: Chữa Trường phong ỉa ra máu, 5 loại trĩ, cam trùng ẩn giấu ở phần dưới ( ). Trĩ này căn bản là lạnh, chú ý ăn lạnh, tình dục quá một (phòng lao) (Sách Đồng và Minh: Giống nhau). Sách Minh Hạ nói: Chữa trĩ lâu ngày.
- Hội âm: Chữa đường hang có bọ quấy nhiễu, trĩ lâu thông nhau là chết (Sách Thiên nói: Chủ trĩ và âm hộ thông nhau là chết).
- Hội dương: Chủ trĩ lâu ngày.
- Tiểu trường du: Chủ năm thứ trĩ đau (Minh: Giống thế).
- Trật biên: Trị năm thứ trĩ phát sang.
- Phục lưu: Trị huyết trĩ, sau khi ỉa thì sưng.
- Phi dương: Trị đã kê trĩ (trĩ gà đồng).
- Thừa sơn: Trị trĩ lâu, sưng đau.
- Phù thừa (Thừa phù?): Trị trĩ lâu, sưng vĩ thự (phao câu), khó ỉa, âm bào cố hàn, tiểu tiện khó. Sách Thiên nói: Chữa 5 loại trĩ, ỉa ra máu tươi, sưng trong phao câu (xương đuôi sau lỗ đít), khó ỉa.
- Khí hải du: Chữa bệnh trĩ ỉa ra máu (Minh).
- Phi dương: Chủ trĩ thoán (cướp), thương đau.
- Thương khâu, Phục lưu: Chủ trĩ ra máu, ỉa xong nặng lỗ đít (cứ như là chưa ỉa xong, gọi là Hậu trọng).
- Lao cung: Chủ nhiệt trĩ.
- Thừa cân, Thừa phù, Ủy trung, Dương cốc: Chủ trĩ đau, sưng dưới nách.
- Thương khâu: Chủ trĩ xương bị mòn (Sách Đồng nói: Bệnh trĩ xương có nhọt gặm mòn).
- Chi câu, Chương môn: Chủ tràng nhạc sưng, dò.
- Tuyệt cốt: Chủ dò tràng nhạc, nách sưng.
- Hiệp khê, Dương phù (Đồng: Giống thế), Thái xung: Chủ sưng dưới nách, dò tràng nhạc (Sách Đồng nói: Thái xung, Lâm khấp trị mụn, tràng nhạc dò).
- Thiên đột, Chương môn, Thiên trì, Chi câu: Chủ dò.
- Thiên đột, Thiên song: Chủ dò đau cổ.
- Trường cường: Chủ dò ở dưới (Minh, xem: Trĩ). Một nghìn, dùng Đình lịch làm thành bánh để cứu dò. “Ngoại Đài” nói: Không thể cứu mục trên đầu, hơi Đình lịch vào não, chết người.
- Phép cứu trĩ, bệnh nếu chưa sâu dưới xương đuôi (Vĩ lư), gần đường anh (lỗ đít) cứu một huyệt, tiện có thể trừ đi. Như “Truyền tín phương”, trước hết lấy cành Hòe lâu năm, sắc nước rửa, sau cứu trên đó 7 mồi, rất xứng là nghiệm. Như “Bản thảo” chỉ lấy một nắm rễ Mã lam thái, 3 bát nước, sắc lấy nửa bát, nhân lúc còn nóng, lấy cái bình nhỏ miệng, xông rửa, làm cho bớt sưng, nguyên cứu trên gốc vú chuột sống (tức không thể cứu đầu nhọn sợ kết quả chậm). Như bệnh đã sâu, dùng thuốc rửa không bớt, dùng thang khác rửa cho tiêu, sau đó mới cứu. Thấy hơi lửa lên đến ngực mới kết quả. Bệnh tuy sâu, đến hơn hai chục mồi, mãi mãi dứt tận gốc rễ. Lấy mảnh tre, giúp 4 chung quanh thịt chỗ đó, chọn ngày mà sắc trời dịu mát, lạnh thì cứu, kiêng thức ăn độc (Tập Hiệu). Thiết kim cứu lậu dò thì có nhiều huyệt).
Nguồn tin: TƯ SINH KINH - Q3 - LÊ VĂN SỬU dịch.