1. THƯƠNG HÀN (Bệnh nhiệt - Âm chứng, dương chứng)
Đào Xuân Vũ
2025-04-30T00:01:48-04:00
2025-04-30T00:01:48-04:00
https://dongyhc.vn/nukeviet/vi/dong-y-hc/tri-lieu-bang-dong-y/1-thuong-han-benh-nhiet-am-chung-duong-chung-1083.html
/nukeviet/themes/default/images/no_image.gif
Thuoc dong y
https://dongyhc.vn/nukeviet/uploads/logohc3-2.jpg
Thứ tư - 30/04/2025 00:01
- Phàm bệnh nhiệt, đâm Hãm cốc, chân lạnh trước, lạnh đến đầu gối thì rút kim, Thân bại, tẩy trừ rét run nhè nhẹ sườn cụt và chi tức đau.
- Bệnh nhiệt trước hết thắt lưng và ống chân buốt, hay khát uống nhiều lần, mình xanh, xanh thì gáy đau mà lạnh và buốt. Chân nóng, không muốn nói, đầu đau đỉnh chóp (điên điên) trước lấy Dũng tuyền và Thái dương tỉnh vinh.
Nhiệt ở trong, ít hơi, quyết hàn cứu ở đó. Nhiệt đã đi, cứu Dũng tuyền 3 mồi.
Bứt rứt trong tâm, không muốn ăn cứu Dũng tuyền.
Nhiệt đã đi, bốn thứ khí xuyễn nghịch, phong một bên người, mình ra mồ hôi mà mát đều lấy Hiệp khê.
- Phàm ôn bệnh mình nóng trên 5 ngày mà mồi hôi không ra, châm Thái tuyền, lưu kim 1 giờ mới lấy kim, nếu chưa đủ 5 ngày cấm châm.
- Phàm hay thở dài, không muốn ăn, thường nóng rét, ra mồ hôi, bệnh đến thì hay nôn, nôn xong thấy mệt, lấy Công tôn và Tỉnh du. Thực thì trong ruột quyết đau như cắt, đầu mặt sưng lên, phiền tâm, hay cuồng, hay uống, không hay ăn.
Hư thì cổ trướng, khí ở trong bụng đầy to, nóng đau, không muốn ăn, quặn bụng nôn nao (hoắc loạn). Công tôn: Chủ ác chứng đó.
- Phàm nhiệt bệnh tâm phiền, chân lạnh mát nhiều mồ hôi, trước lấy Nhiên cốc, sau lấy Thái khê, động mạch ở khe ngón cái, đều bổ trước ở đó.
- Phàm ôn bệnh có thể châm chích ở 59 huyệt. Số huyệt ở mình có 655, trong đó có 36 huyệt cứu là có hại, 79 huyệt châm vào đó có tai nạn. Các thầy thuốc ở Giang nam giữ kín yếu phương của Trọng Cảnh mà không truyền. Huyệt Nhiếp nhu châm cứu để chữa ôn bệnh (xem: Hoàng thư).
- Chỉ mê phương: Cứu âm độc thương hàn pháp, là giống như thao mà không khát, môi xanh và thắt lưng trên nặng, hầu họng và tròng mắt đau, bụng ngực buồn bằn đau, lưỡi co, mặt xanh và nuốt nấc, khí xuyễn nôn ngược, ra mồ hôi lạnh, không nói được, lấy khoảng hơn chục cây hành, bỏ dễ, bóc vỏ, ngắt ống đi vò miếng giấy lộn rộng 2 thốn, không để cho cứng là muốn cho thông hơi, lấy dao cắt mồi khoang cao nửa thốn, đặt nên giữa rốn, dùng cái bàn là đã hơi lửa là trên đó, hành rất dễ mềm, không quá mươi lần, người bệnh sẽ sống lại ngay, sau đó uống thuốc chính khí.
- Cứu kết hung thương hàn pháp, là giống như tức ngực, ngắn hơi, ấn thì đau hoặc mửa ngược lên, tức buồn bằn hoặc ỉa không thông mọi thứ thuốc không thể cứu. Lấy 7 hạt Ba đậu, cả vỏ, Hoang liên mập to 7 thốn, bỏ râu, cũng giã lát làm thành viên đặt ở giữa rốn, lấy tay ấn xuống để tiêu cái thực tụ, vê mồi ngải ta bằng hạt Bồ kết, cứu ở trên thuốc. Quá lắm cũng chẳng thể quá 3*5 = 15 mồi thì khỏi ngay. Tiếp theo đó dùng thuốc bổ một vài ngày. Nếu như bệnh đã nửa tháng, có hơi khí (vi hứu khí) đều: Chữa được.
- Trị khí hư dương thoát, chân tay lạnh, không có mạch, hơi thở muốn dứt, bất tỉnh nhân sự và thương hàn âm quyết, trăm thứ thuốc vô hiệu, dùng cách: “Là hành sống”.
Hành lấy giấy cuốn lại to như cái chén, bỏ dễ, và lá, giữ lại phần trắng, dài hơn hai thốn, như cái bánh nướng, trước hết lấy lửa ép (hiếp) một mặt, làm cho cái nóng đều khắp, Ngải không làm cho đốt hung người ta, rồi đem chỗ nóng bắc lên rốn và sát rốn bệnh nhân, trên đó lấy bàn là chữa đủ độ nóng mà là làm cho hơi trong bánh hành là vào trong cơ thịt, cần có sẵn 3, 4 bánh hành, bánh thứ nhất không thể là, lại một bánh khác thay, lâu lâu bệnh nhân mới tỉnh dần, tay chân ấm, có mồ hôi thì khỏi, lại uống thêm Tứ nghịch thang bồi thêm cái ốm ở trong, vạn vạn lần không lo.
Anh con ông bác tôi bệnh thương hàn, mê man không biết gì đã 8 ngày, tay chân rắn lạnh như đá, thuốc đổ cho không vào được. Dùng phép đó mà khỏi. Tập Hiền hiệu Lý Bố Toàn Phu dùng phép đó cứu người đã nguy, không thể kể hết số được (Lương).
- Mới bị bệnh, hoặc trước hết đau đầu, mình nóng rét hoặc ngấy ngấy ( ) muốn lấy lửa hơ, hoặc thắt lưng và lưng trên cứng đơ, mặt và mắt giống như uống rượu. Đó là thương hàn mới bị một vài ngày. có thể cứu một hàng lửa ở dưới tâm gồm 3 chỗ: Chỗ thứ nhất cách dưới tâm 1 thốn, tên là Cự khuyết. Chỗ thứ 2 tên là Thượng quản cách tâm 2 thốn. Chỗ thứ 3 dưới tâm 3 thốn, tên là Vị quản, cứu mỗi chỗ 50 mồi. Người lớn 50 mồi, trẻ em là 3 mồi. Cũng tùy tuổi mà chữa, lớn nhỏ lấy ý mà chia số (Thiên).
- Nếu bệnh đã từ 3, 4 ngày trở lên, nên cứu trên ngực 20 mồi, lấy giây đo giữa mũi lên đến mé tóc, gập đôi sợi giây cắt bỏ đi ẵ lại từ mép tóc thẳng lên vào trong tóc, cứu ở đầu giây, tên là Thiên thông. Lại cứu 2 Chiếp nhu (Thái dương). Lại cứu 2 Phong trì, lại cứu Can du 10 mồi. Còn lại các chỗ 20 mồi. Lại cứu Thái xung 30 mồi, thần nghiệm.
- Phàm trị thương hàn chỉ có âm chứng là cứu, ngoài ra đều phải châm. Theo như Thiên Kim Phương chỉ có nói: Lấy châm mà Tố Vấn cũng nói: Bệnh quá nặng, làm 59 lần châm, do đó tả chư dương ở trong ngực, trong dạ và liệt ở tứ chi, ngũ tạng (xem: Thiên bà về nhiệt).
- Nếu ôn nhiệt mà mình nóng đã trên 5 ngày, mồ hôi không ra được, có thể châm Đại tuyền. Chưa đủ 5 ngày thì cấm châm (Thiên Kim), mà ở Thiên Kim, bệnh đầu đau, mình nóng rét lại cứu Cự khuyết, Thượng quản, Trung quản là 3 chỗ, tại sao cũng là âm chứng, nếu giống như đã nói: Hoặc ngây ngấy muốn lấy lửa hơ, người thầy thuốc phải phân biệt vậy.
- Thông lý: Trị nhiệt bệnh, tự nhiên trong tim hối tiếc ( ) nhiều lần thiế duỗi ra đều đều ( ), buồn sợ mắt hoa, đầu đau, mặt đỏ, mặt nóng, tim hồi hộp, khuỷu tay, bắp tay, cánh tay mỏi đau, thực thì chi sưng, hư thì không nói được, nôn đắng, hầu bại, ít hơi, đái dầm dề (Đồng).
- Kỳ môn: Trị đàn bà quá kinh không giải, gặp châm Kỳ môn làm cho kinh không chuyền (Tức là bệnh qua thời hạn của kinh tuần hành mà chưa thoát ra hết, còn lưu ở kinh lạc, châm Kỳ môn làm cho bệnh không chuyền từ kinh này qua kinh khác - Nd).
- Trung quản: Chữa đi ngoài trời bị thương hàn (Minh).
- Khúc trạch: Chữa bệnh thương hàn thấp ôn, mình nóng miệng khô.
- Cách du: Chủ thương hàn hay nằm, mệt mỏi, không muốn động lắc mình, thường ấm không ăn được (Thiên).
- Thiếu xung: Trị bệnh nhiệt buồn bằn, tức tối, khí lên đau tim, đờm lạnh, ít hơi, buồn bã, hay co giật (Minh chép là thích co giật). Lòng bàn tay nóng, ngực đau, miệng nóng, họng buốt tự nhiên nóng, tự nhiên rét, bàn tay co, không duỗi, dẫn vào mắt đau (Đồng).
- Khúc trì: Trị thương hàn, để lại các chứng da dẻ khô khan.
- Thông lý: Chủ bệnh nhiệt, đầu tiên mấy ngày không có thuốc (Thiên).
- Ngư tế, Dương cốc: Chủ bệnh nhiệt, run rẩy, gõ hàm bụng tức, dương vật co lại, màu da không đẹp.
- Xích trạch: Chủ khí ở cách hay nôn, gõ hàm, không có mồ hôi.
- Thận du: Chủ đầu mình nóng đỏ, run rẩy trong thắt lưng, tứ chi khó chịu, muốn nôn.
- Tam gian: Chủ khí nhiệt, mình nóng xuyễn (Giáp nói: Nóng rét miệng khô, mình nóng thở xuyễn, mắt đau cấp hay có giật).
- Ngư tế: Trị bệnh nhiệt, rét run, khua hàm, bụng đầy, dương vật co rụt lại, màu da không đẹp.
- Trung xung, Thiếu xung, Quan xung, Lao cung, Đại lăng, Dương khê, Thiên liêu: Chủ bệnh nhiệt tâm phiền, tâm bứt rứt, mồ hôi không ra, trong lòng bàn tay nóng, đau tim, mình nóng như lửa, cuống lưỡi đau.
- Giản sử: Chủ bệnh nhiệt, phiền tâm, hay ụa, trong ngực bâng khuâng hay động mà nóng.
- Cự khuyết: Chủ phiền tâm hay ụa nôn.
- Khúc trạch: Chủ thương hàn ôn bệnh, mình nóng tâm phiền, miệng khô.
- Chi chính, Thiếu hải: Chủ bệnh nhiệt, trước hết là thắt lưng, ống chân buốt, hay khát, ăn uống nhiều lần, mình nóng, gáy cứng đau.
- Thiên tỉnh: Chủ rét run, cổ gáy đau.
- Ủy trung: Chủ bệnh nhiệt đau kẹp hai bên cột sống.
- Phong môn: Trị thương hàn cổ, gáy cứng, mắt mờ (Minh có chữ mũi tắc) hay khịt mũi, chảy máu cam, ra nước mũi trong (Đồng).
- Âm độc trầm khốn (Chứng chỉ riêng lạnh nguy hại - Nd), thuốc ăn vào khó làm cụng hiệu, nếu như cứu ở giữa rốn 300 mồi ngải như quả táo mà chân tay không ấm lên là không thể: Chữa được (xem: Bản Sự Phương). Hoặc tâm mê, tai ù, gọi không thưa do ăn lạnh mà lại như thế. Tôi đêm Lý Trung thang cứu được nhiều người. Nếu uống thuốc sắc thì sắc Ngũ Linh Tán cùng uống hoặc sắc Nhân sâm thang mà uống đều khỏi (Thiên Kim nói: Thương hàn từ phong hàn mà bị, như biểu trúng phong hàn, nhập lý thì không tiêu mất vậy. Chưa có uống ôn thì không mất được).
Nguồn tin: TƯ SINH KINH - Q7- LÊ VĂN SỬU dịch.