“Nội kinh” nói rằng: Can là chức vụ Tướng quân, mưu lự từ đó mà ra. Can, cái gốc của sự quyết đoán, chỗ ở của hồn, cái đó biến hóa ở móng, dã xung (đầy đủ) ở gân, đã sinh huyết khí, là dương trong thiếu dương, thông với khí mùa xuân. Phương Đông màu xanh, thông vào với Can, khai khiếu ở mắt, chứa tinh ở Can, làm bệnh phát kinh (co giật). Vị đó là chua, loại là thảo, súc là gà, cốc là lúa mạch, là ứng với 4 mùa, trên trời thấy Tuế tinh thì đã biết bệnh ở gân, âm là Giốc, số là 8, mùi là tao (hôi mốc), dịch là nước mắt. Phương Đông sinh phong, phong sinh mộc, mộc sinh chua, chua sinh Can, Can chủ gân, cân sinh Tâm, Can chủ mắt. Ở trời là huyền, ở người là đạo, ở đất là hóa, hóa sinh ra ngũ vị, đạo sinh ra hiểu biết, huyền sinh ra thần. Ở trời là phong, ở đất là mộc, ở mình mẩy là gân, ở tạng là Can, ở sắc là màu xanh rêu, ở thanh là tiếng hô, ở biến động là nắm chặt tay lại, ở chí là giận dữ, giận dữ thì hại Can, buồn thắng giận dữ, phong thì hại gân, táo (khô khan) thì thắng phong, chua thì hại gân, cay thắng chua.
Túc Quyết Âm Can kinh huyệt ca:
Nhất thập tam huyệt Túc Quyết âm, Đại đôn, Hành gian, Thái xung xâm, Trung phong, Lãi câu, Trung đô cận, Tất quan, Khúc tuyền, Âm bao lâm, Ngũ lý, Âm liêm, Dương thỉ huyệt, Chương môn thường đối Kỳ môn thâm. Đó là một đường dọc, bắt đầu từ ở Đại đôn, hết ở Kỳ môn, lấy Đại đôn, Hành gian, Thái xung, Trung phong, Khúc tuyền làm Tỉnh, Vinh, Du, Kinh, Hợp. Mạch bắt đầu từ ở mép chòm lông trên ngón chân cái, lên theo cạnh trên mu bàn chân, cách mắt cá trong chân 1 thốn, trên mắt cá 8 thốn, giao ra phía sau Thái âm, lên cạnh trong Thái âm, lên cạnh trong kheo chân, theo đùi, vào âm bộ, đi quanh bộ máy sinh dục, phía dưới bụng dưới, kẹp 2 bên dạ dày, thuộc vào Can, có Lạc sang đảm lên xuyên qua cách, rải ra sườn, theo sau hầu họng, lên vào góc trên, nối liền với mắt, lên ra trán, hội với Đốc mạch ở đỉnh đầu. Còn một nhánh nữa, từ hệ mắt xuống phía trong má, vòng phía trong môi. Còn một nhánh nữa ở bụng từ gan, tách ra xuyên qua cách lên trú ở phế, nhiều huyết, ít khí, giờ Sửu khí huyết trú ở đó. Tạng đó là Ất Mộc, mạch tại tả Quan bộ.
Đạo dẫn bản kinh:
Can lấy mắt làm huyệt, người ta ngủ thì huyết quy về Can, mắt nhờ đó mà có thể nhìn thấy. Thường thì ngủ lại có vô danh hoặc hóa ở mùa hạ không thể chùng giãn ra để mà ngủ, cũng không thể không ngủ. Nếu như Đảm hư hàn mà chẳng ngủ, thì tinh thần mệt mỏi, chí lại không an. Can thực nhiệt thì ngủ quá nhiều làm cho Tuệ kính sinh bụi, thiện căn chôn đi mất, tất cả không điều Can Đảm, như sáp đó là ma đạo vậy. Cử ra những lời cần thiết: Không cáu giận, không ngủ ban ngày, ngủ là hình, không ngủ là thân, cái tinh của cái ngủ cũng là cái linh của thân. Người ta có thể ngủ ít, thì về già sinh tỉnh tính, trí thức sáng sạch, chẳng riêng chỉ thần khí thanh sáng, giác mộng cũng yên. Nếu như tham ngủ thì huyết chảy về trong tâm, nguyên thần rời chỗ ở, không chỉ nói yểm tính trời, thần cũng theo cảnh mà hôn mê. Tam Phong có nói: “Giữ lấy cái mộng trong mộng, tìm kiếm cái huyền trên cái huyền. Tự theo biết được cái Nàng sống ở mặt, cười mà bảo rằng Bồng lai ở trước mặt”. Thúc thủ mộng trung chi mộng, Sưu cầu huyền thượng chi huyên, Tự tòng thức đắt nương chi diện, Tiểu chỉ bồng lai, tại mục tiền. Nó là như thế đấy. « Nội kinh » nói rằng: « Ba tháng mùa xuân, đó là phát trần, trời đất bắt đầu sinh, vạn vật đã tươi tốt, đêm nằm, ngày dậy, rộng ». Bước ở đình, xõa tóc hoãn hình, đã làm chí sinh, đó là ứng với khí mùa Xuân. Đó là đạo dưỡng sinh vậy. Ngược lại với như thế là thương Can, điều đó lại không thể không biết.