15. ĐỒI SÁN (Các loại sán khí: Đồi sán, thai sán, hàn sán, tốt sán)
Đào Xuân Vũ
2024-09-07T22:25:15-04:00
2024-09-07T22:25:15-04:00
http://dongyhc.vn/nukeviet/vi/dong-y-hc/tri-lieu-bang-dong-y/15-doi-san-cac-loai-san-khi-doi-san-thai-san-han-san-tot-san-878.html
/nukeviet/themes/default/images/no_image.gif
Thuoc dong y
http://dongyhc.vn/nukeviet/uploads/logohc3-2.jpg
Thứ bảy - 07/09/2024 22:25
Sách “Tốt dụng phương” nói: Chữa thủy đồi, to một bên, lên xuống không nhất định, đau không chịu nổi, tục thường gọi là Bàng quang khí. Dùng 2 lạng Mẫu lệ đã tôi qua lửa, gừng đã sấy khô 2 lạng. Hai thứ tán nhỏ đắp lên chỗ sưng khỏi.
Như vậy thì Thủy đồi tức là Bàng quang khí.
Sách “Thiên Kim” nói rằng: Khí xung chủ đồi.
Sách “Minh Đường hạ kinh” nói: Trị quí sán.
Như vậy Đồi tức là Quí sán. Tôi sợ người khác cạn ở cái tên mà chữa sai, cho nên làm riêng rõ ra như thế.
- Khúc tuyền: Chủ quí sán, hạ âm (bìu đái) nhảy đau, dẫn vào trong rốn (Thiên).
- Trung đô, Hợp dương, Trung khước, Quan nguyên, Đại cự, Giao tín, Trung phong, Thái xung, Địa cơ: Chủ đồi sán.
- Trung phong: Chủ đồi sán, còng, đau dữ dội, mệt mỏi, quyết.
- Thiếu phủ: Chủ đau hạ bộ, thực chứng thì vươn dài ra, nóng rét, dương vật rất đau, đái dầm. Thiên về hư chứng thì ngứa dữ dội, khí nghịch tốt sán, tiểu tiện khó.
- Xung môn: Chủ đàn bà âm sán.
- Thương khâu: Chủ âm đau trong đùi. Khí ung, hồ sán (như con cáo) chạy lên, chạy xuống dẫn đau vào bụng, không thể cúi ngửa được.
- Cự khuyết: Chủ hồ sán.
- Thái xung: Chủ hồ sán, nôn, quyết.
- Kiên tỉnh: Chủ cạnh vai xõa ra cánh tay nối nhau, chủ đồi một bên (Thiên đồi).
- Trung quản: Chủ sán xung lên, chết giả không biết gì hết.
- Giao tín: Chủ khí còng đồi sán âm hộ cấp, khu vực đùi, cạnh trong xương đau.
- Tê trung, Thạch môn, Thiên khu, Khí hải: Chủ sán khí đi quanh ở bụng dưới. Sán 5 tạng thắt ở rốn, xông lên ngực không thở nổi (giống như ở Sách Thiên).
- Tô sán, đau thắt rốn, xung lên ngực không thở được, cứu Tê trung (Thần khuyết).
- Tô sán, đau thắt rốn, Thạch môn, chủ ở đó.
- Tô sán, đau thắt rốn, có lúc dứt. Lấy Thiên khu chủ trị, lại chủ sán khí, phiền muộn, nôn (Thiên nói: Chủ khí sán nôn) mặt sưng, bôn đồn (như con cá đều chạy) (giống: Giáp).
- Khí xung: Chủ đồi (Sách Minh Hạ chép là quí sán), âm hộ sưng đau, dương vật mềm yếu, đau trong ống đái, hai hòn dái lạnh đau không thể cúi ngửa.
- Ngũ khu: Chủ âm sán, hai hòn dái co lên vào bụng dưới mà đau. Sách “Minh Đường hạ kinh” nói: Chủ âm sán, đau bụng dưới.
- Âm giao, Thạch môn, Thái xung: Chủ hai hòn dái lạnh (xem: Cổ lại).
- Giao tín (xem: Lậu), Trung đô (xem: Sôi ruột), Đại cự, Khúc cốt (xem: Bụng dưới): Trị quí sán (Đồng).
- Khúc tuyền: Trị đàn ông quí sán, âm hộ và đùi đau, đái khó, bụng sườn đầy tức, còng bí, ít khí (ngắn hơi), dễ ỉa, chân tay không cất nhắc được (bất cử). Thực thì mình nóng, mắt hoe đau, mồ hôi không ra, mắt mờ mờ, đầu gối đau, gân co, không thể gập duỗi.
- Sách “Thiên Kim” viết: Đồi có 4 loại.
+ Trường đồi: Hòn dái trương lên, khó cứu.
+ Khí đồi, Thủy đồi châm cứu dễ chữa. Hòn dái to, co lên vào bụng, cứu Tam Âm giao, theo tuổi.
+ Hòn dái lệch, to, Bệnh đồi, cứu: Quan nguyên 100 mồi; hoặc Đại đôn theo tuổi; hoặc Hoành cốt, ở bên 27 mồi, giáp với ống dương vật là huyệt (xem rõ ở Thiên Kim).
- Trúc tân: Trị trẻ em thai sán (Minh Hạ, cũng giống thế), đau không thể bú được.
- Trẻ em thai sán, đái lệch chiều, cứu đến chữ thậm man bìu đái (huyệt Nang để), ngay trên đó 3 mồi. Mùa xuân so với mùa hạ mà cứu, mùa thu so với mùa đông mà cứu (?).
- Thái xung: Chủ con gái sán, lại sưng cả bụng dưới, ỉa nhão cong lưng, đái dầm, đau cửa mình, mặt đen, đau khóe mắt, rong huyết (Thiên).
- Lãi câu: Chủ con gái sán, ra nước đỏ trắng quá nhiều, lúc nhiều, lúc ít, bụng đau dữ dội.
- Âm giao, Thạch môn: Chủ sán (xem: Không có con).
- Trẻ em khí đồi, cứu huyệt Đại đôn ở Túc quyết âm. Bị bên trái, cứu bên phải, bị bên phải cứu bên trái, đến 1 mồi.
- Thái Trung Công chẩn tư không mệnh phụ rằng: “Sán khí khách vu Bàng quang, non vu tiền hậu tiết nhi niệu xích” tức là sán khí trú ở Bàng quang, trước sau khi đái thì đái ra nước đỏ mà khó. Cứu ở mạch Túc quyết âm, trái phải đều 1 mồi, tức thì không đái dồn mà nước đái trong, lại làm Hóa tề thang uống mà tan sán khí.
- Âm thị, Can du: Trị hàn sán xuống đến lưng dưới và chân như nước lạnh, thủy thương mọi thứ sán, ấn ở dưới Phục thỏ, trên gối thấy đau lạnh (Ở khoảng Âm thị), bụng chướng đầy, quyết ngắn hơi.
- Sách “Minh Hạ” nói rằng: Tốt sán đau bụng dưới, sức yếu, ngắn hơi, giữa Phục thỏ lạnh. Sách “Đồng” cũng nói: Hàn sán bụng dưới chướng, lưng trở xuống và trên Phục thỏ lạnh như nước lạnh.
- Hợp dương: Trị hàn sán, âm hộ lệch đau.
- Nhiên cốc: Trị hàn sán, bụng dưới chướng, xông lên sườn ngực.
- Thứ liêu: Trị các khí, tụt xuống thắt lưng và cột sống đau không xoay, lắc được. Cấp dẫn vào cửa mình và dương vật đau không chịu nổi. Từ thắt lưng xuống đến chân tê bại, nếp bả vai đau, đái nhỏ giọt, vùng dưới tim rắn, chướng.
- Thái khê, Hành gian (xem: Bạch trọc - trắng đục), Hoang du (xem: Bụng chướng), Can du: Trị hàn sán (xem: Ho, ở Sách Minh thấy giống thế).
- Âm giao: Trị hàn sán, dẫn đau vào bụng dưới.
- Ngũ khu: Trị con trai hàn sán, trứng dái co lên vào trong bụng mà đau.
- Trung phong: Trị hàn sán dẫn đau vào trong thắt lưng, hoặc mình hơi sốt nhẹ.
- Đại đôn: Chủ hàn sán âm vật và dương vật vươn ra (xem: Khí sán).
- Em nhỏ tôi chơi đùa bê nặng, nấc bị tật thiên trụy, có một đạo nhân lấy ngang huyệt Quan nguyên sang bên đúng 3 thốn cứu ở trên mạch xanh 7 mồi thì khỏi. Vương Ngạn mắc nạn Tiểu trường khí cũng cứu như thế thì khỏi. (xem thêm: Bàng quang).
- Kim môn (xem: Thi quyết), Khâu khư (xem: Nách sưng): Trị hàn sán mà đau.
- Đại đôn: Trị tốt sán, đái nhiều lên, đái dầm, ở trong đầu âm (đêm là đái) đau, đau vùng tim mà ra mồ hôi, dái co lên bụng, dái to lệch. Trong rốn, bụng đau, buồn buồn không vui. Bệnh bên trái, lấy bên phải, bệnh bên phải, lấy bên trái.
- Lãi câu: Trị tốt sán, bụng dưới sưng, có lúc bụng dưới đau dữ dội. Đái khó, như còng, bế, nhiều lần kêu hi hi, sợ hãi, bồn chồn, thở hụt hơi. Bụng đau, buồn buồn, không vui. Trong họng có vướng như có cục thịt thở (tức nhục). Phần vai trên đau khắp, không thể cúi, ngửa được.
- Thái xung: Trị trẻ em tốt sán, nôn ngược, phát rét. Họng khô, mu bàn chân sưng. Phía trước mắt cá trong chân đau quá lắm, sống chân buốt, dưới nách sưng. Sách Minh Hạ nói: Trị tốt sán đau bụng dưới, đái khó như lậu.
- Chiếu hải: Trị tốt sán, đau bụng dưới, nôn mửa, hay nằm.
- Âm kiều: Trị tốt sán, đau bụng dưới (giống như trên), bị bên trái lấy bên phải, bị bên phải lấy bên trái, khỏi ngay (Minh).
- Lãi câu: Trị tốt sán, bụng dưới sưng, đái khó (Sách Giao nghi, cũng giống thế). Dưới rốn tích khí như quả trứng bằng đá, chân lạnh, ống chân buốt, khó co duỗi (Hạ kinh).
- Thạch môn: Chữa tốt sán, đau thắt rốn.
- Quan nguyên: Trị tốt sán (Sách “Đồng” chép là bạo; Thiên: giống ở đây), sán, bụng dưới đau, chuyển bào (lệch Bàng quang) không đái được.
- Hãm cốc: Chữa tốt sán, đau bụng dưới.
- Giao tín (xem: Lậu): Chữa tốt sán.
- Hoa Đà chữa tốt sán, trứng dái lệch, to: Lấy ở ngón cái chân, từ móng chân đi vào cạnh trong 5 phân chỗ thịt trắng, đốt 3 mồi ngải to bằng nửa hạt táo, tả cứu hữu, hữu cứu tả.
- Chiếu hải: Chủ tứ chi quá mỏi, mình mẩy bứt dứt, bạo phát sán (Thiên).
- Đại đôn: Chủ tốt sán, đau dữ dội, hòn dái nhảy lên vào bụng. Hàn sán, dương vật vươn ra, sưng to mà lệch. Trong rốn, bụng buồn buồn không vui. Đái khó mà đau. Cứu, trích thì khỏi ngay. Bệnh bên trái lấy bên phải, bệnh bên phải lấy bên trái (Giáp: Chiếu hải chủ trị).
Nguồn tin: TƯ SINH KINH - Q3 - LÊ VĂN SỬU dịch.