22.THIÊN ĐỘT:天突(Xúc phạm tới trời;có tên là Thiên cù)
- Vị trí: Ở chỗ lõm trên xương ngực, ngang với bờ trên xương đòn ở hai bên, Âm duy mạch và Nhâm mạch hội ở đó. Nếu như châm kim thẳng đứng (với da mặt) không thấp tay (kim châm chếch) thì hại khí của ngũ tạng, làm thương nhân đoản thọ.( Cách xương ức 0,5 thốn, ở giữa hố trên ức.Cách xác định: Cho bệnh nhân ở tư thế nằm: Tư thế an toàn nhất là nằm ngửa, nếu có thể kê gối dưới vai; ngồi có tựa đầu thoải mái, an toàn cũng có thể. Xác định vị trí trung tâm của hố trên xương ức, cao hơn xương ức khoảng 0,5 thốn. làh vị trí huyệt Thiên đột (Ren 22).Cách châm: Đầu tiên châm thẳng 0,2 thốn (chọc qua da), sau đó xoay cán kim hướng lên trên, từ đó hướng đầu kim về xuống dưới. Từ đó tiến thẳng dọc theo mặt sau của xương ức khoảng 0,5-1 thốn.Thận trọng: Điểm nguy hiểm, nếu hướng kim không chính xác, ví dụ: Mũi kim lệch theo chiều dọc hoặc sang bên ở phía sau xương ức gây nguy hiểm cho các mạch máu lớn và các cơ quan khác nằm trong trung thất. Chỉ châm nếu bạn đã thành thạo kỹ thuật). - Cách châm cứu: Châm chếch mũi kim trở vào phía trong cánh xương ức (xương ức có hình cái dao găm, đoạn trên có hình cán sao, chỗ huyệt này là trên cùng của cán dao) sâu 0,5 – 1 thốn, cứu 3 mồi, hơ 5 – 10’. - Chủ trị: Ho hắng dữ dội; hen phế quản; sưng họng; nấc; sưng cổ; nôn mửa; viêm phế quản; tuyến giáp trạng sưng to; cơ hoành co thắt; co thắt thực quản; bệnh tật ở thanh đới; ho ra máu mủ; trong hầu như có tiếng gà nước; bạo câm; da mặt nóng; trong ngực khí vướng vướng; có mạch xanh kẹp hai bên lưỡi; dưới lưỡi cấp; tim và lưng cùng co kéo nhau mà đau; ngũ ế (5 thứ nghẹn); ngủ nhiều; lòng đố kỵ; hoàng đản. - Tác dụng phối hợp: với Chiếu hải trị mai hạch khí; với Chiên trung trị ho hắng; với Định xuyễn, Chiên trung, Phong long trị viêm phế quản; với Du phủ, Chiên trung, Trung phủ trị bệnh tim do phong thấp gây ra ho hắng, hen xuyễn; với Khúc trì, Định xuyễn, Hợp cốc trị viêm phế quản mãn tính; với Nội quan, Trung quản trị co thắt cơ hoành. Hứa Thị nói rằng: « Huyệt đó một lần châm có 4 hiệu quả, phàm sau khi hạ kim rất lâu, trước hết là Tỳ nghiền thức ăn, thấy kim động là hiệu thứ nhất, Thứ là kim phá gốc bệnh trong bụng, làm ra tiếng kêu là hiệu quả thứ 2, rồi sau thấy chảy vào bàng quang là hiệu thứ 3, rồi sau thấy khí lưu hành vào khe lưng dưới lưng trên và thận đường là hiệu thứ 4 ».