32. HO NGƯỢC LÊN (Khái nghịch). Xem thêm: Ho nghịch khí lên xuyễn, thương hàn nôn ọe

Thứ sáu - 25/10/2024 21:28
            - Nhiên cốc, Thiên tuyền, Mãn cốc, Hung đường, Chương môn, Khúc tuyền, Thiên đột, Vân môn, Phế du, Lâm khấp, Kiên tỉnh, Phong môn, Hành gian: Chủ ho ngược (Thiên).
            - Duy đạo: Chủ ho ngược không rứt.
            - Đại lăng: Chủ ho ngược phát nóng rét.
            - Đại lăng, Thiếu thương: Chủ ho ngược, xuyễn.
            - Đại tuyền: Chủ ho ngược, tức ngực, xuyễn không thở được (Minh Hạ giống thế).
            - Tam lý: Chủ ho ngược, hay mửa.
            - Trung phủ: Chủ phế, ho cấp, ho phía trước ngực đau.
            - Tiền cốc: Chủ ho mà tức ngực.
            - Kinh cừ, Hành gian: Chủ hay ho.
            - Hiệp bạch: Chủ ho, nôn khản, bứt rứt, đầy tức.
            - Chi câu: Chủ ho, mắt đỏ mà nóng.
            - Ho, thở, ợ, hay ho, khí không có chỗ ra, trước lấy Tam lý sau lấy Thái bạch, Chương môn (gồm, Thiên).
            - Khổng tối, Thiên tuyền (xem: Tim đau), Thái khê, Hành gian, Du phủ (xem: Xuyễn), Thần phong (xem: Hay ợ), Phù bạch: Chữa ho nghịch (Đồng).
            - Can du: Trị ho dẫn hai bên sườn đau gấp, không thở được. Xoay sang bên khó khăn, dưới sườn và cột sống cũng dẫn mà gập ngược lại, mắt nhìn lên, mắt hoa, từ mi mắt dến đầu đau. Động kinh, cuồng, chảy máu cam, khởi bệnh thì mắt mờ mờ, mắt sinh màng trắng, ho dẫn vào trong ngực đau, hàn sán, đau bụng dưới, nhổ ra máu, ngắn hơi, Kinh Hạ nói: Chữa ho nghịch, hai bên sườn tức bứt rứt.
            - Ngư tế: Chữa ho đau dẫn vào xương cụt.
            - Khiếu âm: Chữa sườn đau, ho ngược lên không thở được.
            - Phù bạch: Chữa ho nghịch, sản tích, tức ngực, không thở xuyễn được, ngực có lao (Minh).
            - Thái uyên: Chữa ho ngược, tim bứt rứt, không nằm được ).
            - Phép chữa ho ngược lên lâu ngày, dưới vú hơn một bề ngang ngón tay, ở trong khe lõm gian sườn thẳng đứng với vú, đàn bà thì gập đầu vú lại làm mức đo, ngang đầu vú là huyệt, mồi lớn hơn hạt đậu xanh một ít. Cứu 3 mồi, trai bên trái, gái bên phải, chỉ một chỗ, lửa đến thịt là khỏi ngay.
            “Lương phương” nói: Trong dòng họ có hoắc loạn mửa, lỵ chịu khổ, tự nhiên phát ho nghịch dồn lên đến chỗ nguy hiểm. Với Phu Đình Trần Trung Dụ bệnh thương hàn, ho nghịch dữ dội, khí đã chẳng cùng loại, đều cứu một cách mà khỏi.
            Phàm thương hàn và bệnh lâu ngày mà bị ho ngược lên đều là chứng ác. Đổ thuốc mà không khỏi, cứu tất sẽ khỏi. Nếu không khỏi thì thường không cầu (Tất Dụng Phương nói: Hạ là khắc nghịch, xem: Nôn ụa).
            - Bệnh ho có 10 thứ là: Ho phong, ho hàn, ho chi, ho đảm, ho quyết âm cùng với ho ngũ tạng. Thiên Kim chép phép châm rõ ràng, mà ho do thương hàn cũng là ác chứng. Thí mật (      ) Giám Tôn nhân bệnh thương hàn ho dữ. Thầy thuốc báo cùng sự khéo phép càng là thì nghiệm cứu kinh: Ở dưới kết hầu cứu 3 mồi thì khỏi. Đó là huyệt Thiên đột vậy, thần thay, thần thay!
 

Nguồn tin: TƯ SINH KINH -Q4- LÊ VĂN SỬU dịch.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây