30. PHẾ KHÍ (Phế phong)

Thứ ba - 22/10/2024 22:37
            - Phế chướng, khí thương, dưới sườn đau nóng, cứu Âm đô, số mồi theo tuổi.
            - Phế chướng đầy tức sườn và bệnh nôn mửa, khí dâng lên, cứu Đại chùy và  trên 2 vú, ở khe sườn thứ 3, mỗi chỗ đều 7 mồi, phế và Đại trường đều thực.
            - Trung phủ: Chủ phế nóng rét (xem: Khí lên).
            - Chiên trung: Trị phế khí ho hắng, xuyễn lên, nhổ ra mủ, không ăn được, trong ngực như tắc (Đồng).
            - Thiên đột: Trị phế ung “Lộc” nhổ ra máu mủ, họng khô, dưới lưỡi co, hầu sinh mụn nở.
            - Trung phủ: Trị phế hạ cấp (ngực đau râm ran), đảm nhiệt, nôn nghịch khí lên. Ho nhổ bọt, nước mũi ra đục. Lưng bả vai đau. Phong ra mồ hôi. Bụng chướng, ăn không xuống. Minh Hạ nói: Phế cấp, tức ngực, ho nghịch, nhổ ra nước bọt đục, hay ợ, da đau.
            - Thái uyên: Trị phế chướng đầy, căng như trống (Cổ cổ). Minh Hạ nói: Chữa trong ngực khí đầy không nằm được, phế chướng căng căng (Cổ cổ).
            - Phế du: Chữa phế nóng rét, phế yếu, xuyễn lên, ho hắng ra máu. Ngực sườn khí đầy tức, không nằm được. Không muốn ăn. Mồ hôi không ra. Lưng trên cứng nhanh chóng (Minh Hạ).
            - Phàm phế có phong khi yếu tuyệt, tứ chi chướng đầy tức, ho ngược tức ngực, cứu Phế du mỗi chỗ 200 mồi.
            - Thủy câu: Chữa mặt sưng, môi động rung rinh, phế phong, giống như giun bò (Minh).
            - Phong trì (xem: Mặt sưng): Chữa phế phong.
 

Nguồn tin: TƯ SINH KINH - Q4 - LÊ VĂN SỬU dịch.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây