29. XUYỄN (Hen) Xem thêm: Ho hắng
Đào Xuân Vũ
2024-10-22T22:36:20-04:00
2024-10-22T22:36:20-04:00
http://dongyhc.vn/nukeviet/vi/dong-y-hc/tri-lieu-bang-dong-y/29-xuyen-hen-xem-them-ho-hang-954.html
/nukeviet/themes/default/images/no_image.gif
Thuoc dong y
http://dongyhc.vn/nukeviet/uploads/logohc3-2.jpg
Thứ ba - 22/10/2024 22:36
- Côn lôn: Chủ bụng đau đầy tức nhanh mạnh (Thiên).
- Côn lôn: Chủ ho xuyễn đầy tức nhanh mạnh (Đồng).
- Tam gian: Trị khí xuyễn (xem: Ngược).
- Thần môn (xem: Tim bứt rứt), Ý xá: Trị xuyễn nghịch (xem: Vai, lưng trên đau).
- Bất dung: Trị ho hen (xem: Huyễn tích).
- Thương dương: Trị ho hen, sưng các khe sườn (xem: Tức ngực). Minh Hạ nói: Ngực đầy các khí xuyễn tức cấp.
- Đại chung: Trị ngực chướng thở xuyễn (xem: Lậu).
- Kỳ môn: Trị xuyễn to, không nằm được.
- Du phủ: Trị ho nghịch lên và xuyễn (Thừa nói giống thế xem: Bụng chướng) và nôn mửa. Ngực đầy tức, không ăn được (Minh giống thế).
- Húc trung: Trị ho nghịch (Minh Hạ nói là Mắng) tức là khái và tấu, khái là ho và tấu là hắng). Ngày xưa, có tiếng mà không có đờm là ho, có đờm không có tiếng là hắng (N.S). Hen không ăn được (xem: Ngực sườn đầy tức).
- Thiên phủ: Trị khí nghịch, xuyễn không thở được.
- Vân môn (xem: Ngực đầy tức), Nhân nghinh (xem: Ỉa mửa), Thần tàng (Minh giống thế): Trị ho nghịch, xuyễn không thở được.
- Khí hộ: Chữa xuyễn nghịch lên.
- Bộ lang: Chữa thở xuyễn không giơ tay lên được.
- Túc Lâm khấp (xem: Kinh nguyệt): Trị xuyễn.
- Phách hộ, Trung phủ: Chủ xuyễn khí cùng đuổi sau nhau (Trung trục) (Thiên).
- Thiên đột, Hoa cái: Chủ xuyễn nhanh mạnh.
- Du phủ, Thần tàng: Chủ xuyễn không thở được.
- Thiên dung: Chủ xuyễn thở lên ra nước bọt.
- Khúc trạch: Chủ ho xuyễn (xem thêm: Khí lên).
- Lư tức: Chữa trẻ em giản, xuyễn, không thở được, tai điếc. (Minh)
- Phách hộ: Chữa ho ngược lên mà xuyễn (xem: Lưng trên đau).
- Phù bạch: Chữa không thở xuyễn thở được (xem: Ho nghịch).
- Kinh cừ: Chữa trong lòng bàn tay nóng, sinh ho nghịch khí lên, nhiều lần xuyễn, bệnh nhiệt lâu ngày mồ hôi không ra đơn (những nốt đỏ) nổi nhanh mạnh, xuyễn nghịch, đau vùng tim, muốn nôn.
- Trung phủ (xem: Phế khí), Phách hộ (xem: Sau lưng), Lặc đường đường: Chữa xuyễn nghịch ).
- Toàn cơ: Chữa ho ngược lên mà xuyễn, trong hầu kêu (khò khè).
- Tam gian: Chữa thương hàn khí nhiệt, mình nóng mà xuyễn.
- Thiên đột: Chữa ho nghịch mà khí xuyễn (Mạ).
- Phế du (xem: Phế): Chữa phế xuyễn.
- Giải khê: Chữa xuyễn thở gấp.
- Ngư tế (xem: Nóng rét): Chữa ho xuyễn (Minh).
- Chiên trung: Chữa ho hắng, xuyễn lên.
- Thủy đột: Trị xuyễn không thở được.
- Phù đột: Chữa xuyễn thở như gà nước kêu (xem thêm: Khí lên).
- Đầu duy: Chủ xuyễn nghịch, đầy tức khó chịu, nôn nước bọt, chảy mồ hôi (Thiên).
- Phế du (Minh Hạ, xem: Phế), Thận du: Chủ ho xuyễn và một trăm thứ bệnh ít hơi.
- Du phủ, Thần tàng (xem: Khí lên), Thiên phủ: Chủ khí lên xuyễn không thở được.
- Phù đột: Chủ trong họng xuyễn kêu.
- Thiên đột, Hoa cái: Trị xuyễn nhanh mạnh.
- Thủy truyền: Chủ ho ngược, ngực tức, xuyễn không thở được.
- Kỳ môn: Chủ xuyễn nghịch, nằm chẳng yên chỗ, dưới sườn tích tụ.
- Kinh cừ: Chủ ho ngược, khí lên mà xuyễn, trong lòng bàn tay nóng.
- Thiếu thương, Đại lăng: Chủ nho nghịch xuyễn.
- Ho hen, Khúc trạch: Chích ra máu thì khỏi ngay.
- Đại lăng: Chủ xuyễn.
- Thiên phủ: Chủ xuyễn không thở được.
- Liêm tuyền: Trị thở xuyễn (xem thêm: Ho nghịch), Ngư tế: Chữa xuyễn (xem: Nóng rét).
- Có người sang trọng bị nạn xuyễn lâu dài, đêm nằm không được phải dậy mà đi. Mùa hè cũng áo giáp ở lưng và tim. Tôi biết là bệnh Cao hoang, bảo cứu Cao hoang du mà khỏi.
- Cũng có người (đàn bà) xuyễn nhanh mạnh, tôi biết là đàm làm vướng bảo lấy bẩy, tám đồng cân Hậu phác đã bẻ nhỏ, lấy gừng 7 lát, một bát con nước, sắc còn 7 phần, uống. Bà sắc lại, uống không quá mấy lần mà khỏi.
Nếu như không do đàm xuyễn, thường cứu Phế du. Phàm có xuyễn mà thở to (háo) là ấn Phế du, không thể không có đau buốt, đều là nhầm mà nhầm Phế du. Bảo cứu mà khỏi.
Cũng có trường hợp chỉ cần nhầm châm Phế du, không cứu mà cũng khỏi, vì bệnh đó có nông sâu.
Em tôi leo núi, vì mưa phải chạy, một đêm khí muộn (buồn bằn bứt rứt), mấy cũng không cầu cứu, khi thấy con bọ em út tôi liền khóc, có ý muốn khác biệt, tôi nghi là có “Tâm bi”, lấy kim châm Bách hội, không khỏi. ấn vào Phế du, em tôi nói là đau như dùi đâm, lấy Hỏa chích nhẹ vào là khỏi ngay. Do đó cũng chữa người xuyễn, thở to chỉ nhằm chỗ Phế du, mà không nhầm chỗ các huyệt khác. Riêng ấn Phế du, không có đau buốt, sau đó mới điểm các huyệt khác là như thế.
Nguồn tin: TƯ SINH KINH -Q4- LÊ VĂN SỬU dịch