6.KHÍ HẢI:氣海(Bể chứa khí; có tên là Bột anh- Hạ hoang)
- Vị trí: Nằm ngửa đo từ giữa rốn xuống 1,5 thốn, con trai cái bé sinh ra khí ở đó. Người chửa CẤM CHÂM.( Ở đường giữa bụng, cách rốn 1,5 thốn hoặc cách bờ trên của khớp mu 3,5 thốn. Cách xác định: Khoảng cách từ tâm rốn đến bờ trên của khớp mu được chia thành 5 thốn đồng thân (lưu ý: kích thước tuỳ tỉ lệ từng người). Huyệt Khí hải (Ren 6) nằm ở đường giữa bụng dưới rốn 1,5 thốn hoặc cách bờ trên của khớp mu 3,5 thốn). - Cách châm cứu: Châm đứng kim sâu 0,8 - 1,5 thốn, cứu 7 mồi, hơ 5 – 15’. - Chủ trị: Đau bụng; tảng sáng ỉa chảy; đau lưng; đái dầm; di tinh; kinh nguyệt không đều; băng lậu huyết; hành kinh đau bụng; tắc kinh; sau khi đẻ choáng váng xây xẩm; trúng gió hư thoát; thần kinh suy nhược; ruột tê bại; đái láu nhiều lần; căng bọng đái; liệt dương; ra khí hư trắng đỏ; không có chửa; sán khí ở bụng dưới; say nắng; thương hàn; uống nước quá nhiều; bụng chướng sưng; khí xuyễn đau dưới tim; bệnh lãnh (lạnh) mà mặt đỏ; tạng hư khí bại; chân khí bất túc; các loại bệnh khí lâu ngày không khỏi; cơ thể gày mòn; tứ chi sức yếu quyết lạnh; bảy loại sán ở tiểu trường; bàng quang, thận, trưng hà kết thành hòn giống như cái chén úp; bụng chướng nhanh, ấn ở đó không xuống; âm chứng co trứng dái; ỉa không thông; nước đái đỏ; tự nhiên đau tim; đàn bà hành kinh rồi giao hợp mà gày mòn; sau đẻ ra nước hôi không dứt; đau quanh rốn và háng. - Tác dụng phối hợp: với Tam âm giao trị đái trắng đục, di tinh; với Hành gian, Trung cực trị đau bụng hành kinh; với Huyết hải, Tam âm giao trị kinh nguyệt không đều; với Trung cực, Tam âm giao trị đau bụng hành kinh; với Duy bào, Tam âm giao trị sa dạ con; với Chi câu, Túc tam lý, Đại trường du trị tắc ruột do ruột tê bại liệt nhu động; với Mệnh môn, Yêu du trị đái tháo, chứng đái ồ ạt; với Ủy trung trị khí hư. Phố Giang Trịnh Nghĩa Tông nạn khí hư xây xẩm té ngã, mắt nhìn ngước lên, đái ra và ra mồ hôi, mạch to, đó là âm chứng dương bạo tuyệt, bị mắc bệnh rồi mà còn tửu sắc, Đan Khê làm cứu Khí Hải mà tỉnh dần (lại), cho uống mấy miếng cao Nhân sâm mà khỏi.