Nhâm mạch tam bát khởi Hội âm, Khúc cốt, Trung cực, Quan nguyên thoát, Thạch quan, Khí hải, Âm giao nhưng, Thần khuyết, Thủy phân, Hạ quản phối, Kiến lý, Trung quản, Thượng quản tương liên, Cự khuyết, Cưu vĩ, tế cốt hạ Trung đình, Chiên trung mạc Ngọc đường, Tử cung, Hoa cái, Toàn cơ dạ, Thiên đột, kết hầu thị Liêm tuyền, Thần hạ, uyển uyển, Thừa tương xá. Gồm 24 huyệt. Kinh này không lấy Tỉnh, Vinh, Du, Hợp. Mạch này bắt đầu ở dưới Trung cực, đã lên bờ mép lông theo phía trong bụng lên Quan nguyên, đến hầu họng, thuộc cái bể của các Âm mạch, đem các mạch lạc của người ta đi vòng khắp các phần âm, thí dụ ở nước mà Nhâm mạch là nơi tổng hợp (hội) ở đó, cho nên gọi là Âm mạch chi hải. Dùng thuốc phải phân nam, nữ, kinh nguyệt thường chủ ở Xung Nhâm, là nhiệm任gọi là Nhâm妊 (Nhâm là chửa). Nhưng thường người ta sống dưỡng ở gốc, giữ gìn ở nguồn, Đốc thì từ Hội âm mà đi lên lưng, Nhâm thì từ Hội âm mà đi lên bụng. Thân mình người ta có Nhâm, Đốc bởi Thiên, Địa có Tý Ngọ. Nhâm Đốc ở người ta lấy lưng bụng mà nói, Tý Ngọ của trời đất, lấy Nam Bắc mà nói, có thể chia ra, có thể hợp lại. Phân ra để thấy âm dương không lẫn lộn, hợp lại để thấy xét bà không có khoảng cách, một mà là hai, hai mà là một. Nhưng ở Tăng đạo không rõ mạch này, các chấp đều ở mức rất cao, cấm ăn, cấm đi, cấm nói, đứt mọi sự (so sánh). Ví dụ: đốt ngón tay, thiêu thân, ngồi kiết già mà chết, rất đáng buồn thay! (Vì) trong đó còn một việc là phân cứt, mà (cứ) đợi thần khí ngưng tụ. Có thứ thì Tinh vận Tam hóa ngũ khí, mà nửa xương cắt lông, thay đổi hầu hỏa khắp trời, có thứ thì ngày vận ở rốn, đêm vận ở Nê hoàn để luyện thể. Có thứ thì Hồ Cửu Linh đọc chú Tam tinh mà quy linh phủ. Có thứ thì đảo đầu Bính mà vận hóa cơ, có thứ mặc chầu Thượng đế, có thứ Phục khí nuốt ráng mây, có thứ bế thờ tồn thần, có thứ lấy huyệt Nhật tinh nguyệt hoa, có thứ thổ nạp đạo dẫn, có thứ đơn vận khí hành hỏa hầu, có thứ đầu thai đoạt xá, có thứ Bàng môn cửu phẩm tiện pháp tam thừa. Mỗi loại đều khác nhau (về cách), nhưng làm sao rồi Nhâm Đốc ra được. Cái sự sáng tỏ về Nhâm Đốc đã giữ được thân. Cũng ví như vua sáng suốt có thể chăm dân để yêu nước, dân chết thì mất nước. Nhâm suy thì thân tàn. Đã là Thượng nhân triết sĩ hẳn trước tiên phải theo lời dặn ngày xưa, đạo dẫn các kinh, điều dưỡng thành thục, thì nhà Tiên có thể chắc nền móng, rồi sau đó quét trừ vọng niệm, lấy Tĩnh Định làm cơ bản, mà thu cái nhìn về, nghe gần lại chứa ánh sáng mặc mặc, điều hơi thở êm êm, nắm vững giữ bên trong chú ý tới cái huyền, khoảnh khắc thì lửa phát trong nước, hoa nở trong tuyết, hai cái thận như đun sôi lên, bàng quang như lửa nóng, Nhâm Đốc ví như cái xe lăn, tứ chi tựa như núi đá. Khoảng chừng như uống một ngụm nước, thiên cơ tự động, nhè nhẹ mà xoay, im lặng im lặng mà nâng, hơi hơi có ý yên định thì Kim Thủy tự nhiên trộn lẫn, Thủy Hỏa tự nhiên thăng giáng như cái gàu nước như hoa lúc ngưng sương, hốt nhiên một hạt to như lúa nếp rơi vào giữa Hoàng đình. Đây lấy duyên ném hồng (chỉ ném thủy ngân) thật mạt, người ta không thể coi thường, quét đi (những cái) đã chà đạp bên cạnh làm cong đường kinh, chỉ ra một cái đường lớn, làm cho người người có thể đi. Đến lúc đó, ý không thể tán, ý tán thì đan không thành. Tử Dương Chân Nhân nói rằng: ‘Hống đúng là sinh ở Ly, lại đi dùng ở Khảm, người con gái đẹp đi qua Nam viên tay giữ ngọc cảm lãm”. Chính là nói cái đó. Hàng ngày làm không gián đoạn, không hại một cái tơ sợi tóc, luyện như thể một Khắc, thì một Khắc vòng khắp trời. Luyện được một giờ thì một giờ đã khắp trời. Luyện được một ngày thì một ngày đã khắp trời. Luyện được 100 ngày thì 100 ngày đó khắp trời. Gọi đó là Lập cơ. Luyện được 10 tháng, gọi đó là Thai tiên. Công phu đó đến đó thân tâm hỗn độn cùng với hư không, không biết thân đó là ta, ta đó là thân, cũng chẳng biết Thần đó là Khí, Khí đó là Thần, chẳng quy vào trong mà tự quy vào trong, không thai tức mà tự thai tức, thủy không cần mà tự sinh, hỏa không cầu mà tự ra. Hư thất sinh trắng, đất đen dẫn Kim, không biết chỗ đã rồi mà đã rồi, cũng không biết Nhâm là Đốc, Đốc là Nhâm vậy. Đến mức lục hại không trừ, Thập thiểu không còn giữ, ngũ yếu không điều tuy là thường có bớt giảm cuối cùng là đạo lớn thì mệt mỏi.
Như thế nào là Lục hại (Sáu cái hại):
Nhất viết:Bạc danh lợi -Coi nhẹ danh lợi.
Nhị viết:Cấm thanh sắc -Cấm tiếng hát và sắc đẹp
Tam viết:Liêm hóa tài -Trong sạch về tiền của
Tứ viết:Tổn tư vị -Giảm bớt chất béo bổ
Ngũ viết:Bình hư vọng -Che những mong muốn đâu đâu
Lục viết:Trừ tật đố -Bỏ ghen ghét
Sáu cái đó (mà còn) có một (sẽ) còn xa con đường vệ sinh, mà (chưa thể) thấy có được. Tuy lòng (cầu) mong diệu lý, miệng niệm chân kinh, mồm nhai anh hoa, thở hít cảnh tượng, không thẻ bổ (thêm) cái đã mất.
Thế nào gọi là Thập thiểu (Mười cái ít):
Nhất viết: Thiểu tư - Ít lo nghĩ,
Nhị viết: Thiểu niệm - Ít nhắc nhớ,
Tam viết: Thiểu tiếu - Ít cười,
Tứ viết: Thiểu ngôn - Ít nói
Ngũ viết: Thiểu ẩm - Ít uống rượu
Lục viết: Thiểu nộ - Ít cáu giận
Thất viết: Thiểu lạc - Ít vui
Bát viết: Thiểu sầu - Ít rầu rĩ
Cửu viết: Thiểu hảo - Ít ham thích
Thập viết: Thiểu cơ - Ít đói.
Phàm nghĩ nhiều thì thần tán, Nhắc nhớ nhiều thì tâm lao, Cười nhiều thì phế phủ phiên, Nói nhiều thì khí huyết hư hao, Uống (rượu) nhiều thì thương thần tổn thọ, Cáu nhiều thì tấu lý bôn phù Cười nhiều thì tâm thần tà đãng, Rầu rĩ nhiều thì đầu diện tiêu khô, Ham nhiều thì chí khí hội (vỡ) tán, Đói nhiều thì trí lự trầm mê. Đây là những thứ tìm người để sống, rất là búa rìu, tính nó ăn người ta mạnh như lang sói. Người vệ sinh tránh cái đó vậy.