VII. BÀNG KINH

Thứ bảy - 24/02/2024 02:04
BÀNG QUANG
BÀNG QUANG
VII.TÚC THÁI DƯƠNG BÀNG QUANG KINH
(Khí huyết của bàng quang đi học theo phần dương nhiều của chân)
Túc thái dương kinh huyệt chủ trị:
« Nội kinh » nói: Cái Bàng quang là chức quan châu đô, tân dịch chứa ở đó. Khí hóa thì có thể ra. Lại nói: Bàng quang là Mạc trường (ruột đen)
Mọi cách trình bày về bàng quang không giống nhau, có sách nói trên dưới đều có miệng. Hoặc có sách nói có chỗ lỗ nhỏ chú tiết, đều là không đúng vậy. Duy chỉ có lỗ dưới ra nước tiểu, ở trên đều do bế nhiệt thấm vào bàng quang, đó là chỗ vào, ra do ở khí làm thành, ở trên khí không thí thì đi vào đại trường mà tiết, ở dưới khí không thí thì chướng cấp mà tắc sáp, nếu không ra được thì làm thành lậu (lâm, bí đái).
Túc thái dương Bàng quang kinh huyệt ca:
Túc thái dương kinh sáu mươi bảy huyệt,
Tình minh chứa ở thịt đỏ trong mắt,
Tán trúc, Mi xung và Khúc sai,
Ngũ xú lên thốn rưỡi là Thừa quang,
Thông thiên, Lạc khước, Ngọc chẩm ngang,
Thiên trụ sau mép tóc ngoài gân lớn,
Đại trữ phần lưng hàng thứ hai,
Phong môn, Phế du, Quyết âm bồn,
Tâm du, Đốc du, Cách du cường,
Can, Đảm, Tỳ, Vị đều theo thứ tự,
Tam tiêu, Thận, Khí hải, Đại trường
Quan nguyên, Tiểu trường, đến Bàng quang,
Trung lữ, Bạch hoàn đếm cẩn thận,
Đó là từ Đại trữ đến Bạch hoàn,
Tất cả đều cách ngoài đốt sống dài thốn rưỡi,
Thượng liêu, Thứ liêu, Trung lại Hạ,
Lỗ trống một, hai ngang đúng thắt lưng,
Hội dương lấy ở ngoài xương âm đuôi,
Phụ phân sát cột sống là hàng thứ ba,
Phách hộ, Cao hoang và Thần đường,
Y hi, Cách quan, Hồn môn số chính,
Dương xương, Ý xá rồi Vị xoang,
Hoang môn, Chí thất, Bào hoang nổi,
Dưới chùy hai mươi Trật biên rộng,
Thừa phù ở giữa ngấn ngang mông,
Ân môn, Phú khích đến Ủy dương,
Ủy trung, Hội dương, Thừa cân đó,
Thừa sơn, Phi dương đến Phụ dương,
Côn lôn, Bộc tham, liền Thân mạch,
Kim môn, Kinh cốt, Thúc cốt nhiều,
Thông cốc, Chí âm cạnh ngón út
(Một trăm ba mươi tư huyệt)
     
Đó là một đường dọc bắt đầu ở Tinh minh, tận cùng ở Chí âm. Lấy Chí âm, Thông cốc, Thúc cốt, Kinh cốt, Côn lôn, Ủy trung làm Tỉnh, Vinh, Du, Nguyên, Kinh, Hợp.
Mạch bắt đầu ở khóe mắt trong, lên trán, giao lên đỉnh đầu, có nhánh từ đỉnh đầu đến góc trên tai, đoạn đó đi thẳng từ đỉnh não nối với não, lại tách ra xuống gáy, đi theo trong vai, cánh tay giáp cột sống, dưới gầm giữa thắt lưng, vào theo cột sống, nối với thận, thuộc bàng quang, có một nhánh tách ra từ giữa thắt lưng, xuống xuyên qua mông, vào hố khoeo chân, còn một nhánh tách riêng ra từ bên trong cánh tay trái, phải tách ra, xuông xuyên qua xương bả vai, vào trong cạnh cột sống, qua khu hông, theo cạnh ngoài sau ngoài hông, xuống hợp vào hố khoeo, rồi xuống xuyên qua trong bắt chân, ra sau mắt cá ngoài, theo Kinh cốt đến đầu nhọn cạnh ngón chân út. Kinh này nhiều huyết, ít khí, giờ Thân khí huyết trú ở đó.
Phủ là Nhâm, Thủy, mạch ở thốn bộ bên mu trái.
 

Nguồn tin: LÊ VĂN SỬU - PHÙNG VĂN CHIẾN:

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây